Bệnh Alzheimer là một bệnh phổ biến, mà ông bà chúng ta ai cũng có thể mắc. Người ta thường nghĩ rằng, người già thường hay quên nhưng hãy cẩn thận vì biết đâu họ đang mắc Alzheimer thì sao? Trung bình người mắc bệnh Alzheimer tử vong sau 3 -10 năm. Cho đến nay, quá trình tiến triển của bệnh vẫn chưa thể đẩy lùi và không có cách chữa trị hết hoàn toàn. Tuy nhiên, người ta đã có thể làm chậm tiến trình của căn bệnh này. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về Alzheimer nhé.
- ĐỊNH NGHĨA
Bệnh Alzheimer là một bệnh lý về sa sút trí tuệ được ghi nhận bởi sự suy giảm nhận thức và hành vi gây cản trở đáng kể đến chất lượng cuộc sống và làm việc của người bệnh. Đây là một bệnh nan y với một giai đoạn khởi phát và tiến triển kéo dài.
Bệnh liên quan đến sự tích tụ các mảng Amyloid và protein tau tại vùng hải mã là vùng nằm sâu trong tế bào não giúp mã hóa ký ức và các vùng khác của võ não liên quan đến việc suy nghĩ và đưa ra quyết định.
Bệnh không hồi phục và thường khởi phát sau tuổi 65.
2. TRIỆU CHỨNG
Bệnh thường diễn tiến chậm và ngày càng nặng theo thời gian
Giai đoạn trước khi mất trí nhớ:
Người mắc bệnh ở giai đoạn này có thể hoàn toàn bình thường khi kiểm tra thể chất và tình trạng tâm thần. Tuy nhiên các vùng cụ thể của não (ví dụ vỏ não, đồi thị) có khả năng bị ảnh hưởng, suy thoái trước khi xuất hiện các triệu chứng.
Bệnh Alzheimer giai đoạn nhẹ
Dấu hiệu của thể nhẹ có thể bao gồm:
- Thường quên mất toàn bộ sự kiện trong khi người già bình thường chỉ quên một phần sự kiện, ví dụ: Người mắc Alzheimer quên là họ đã ăn tối hay chưa trong khi người già bình thường chỉ quên là đã ăn món khai vị gì tối hôm đó và họ thường nhớ lại sau đó, còn người mắc bệnh thì không.
- Nhầm lẫn về vị trí kể cả những nơi quen thuộc, quên chỗ để đồ vật, hay bị lạc.
- Mất nhiều thời gian hơn để hoàn thành các công việc hàng ngày.
- Rắc rối trong việc xử lý tiền và thanh toán hóa đơn.
- Giảm khả năng đánh giá, nhận xét, và hay đưa ra những quyết định tồi.
- Mất tính chủ động.
- Thay đổi tâm trạng, tính cách, khí sắc, hay lo âu bất ổn.
Bệnh Alzheimer giai đoạn vừa
Các triệu chứng của giai đoạn này có thể bao gồm:
- Mất trí nhớ và hay nhầm lẫn hơn.
- Rút ngắn khoảng chú ý.
- Lú lẫn, hay không nhận ra người thân, bạn bè.
- Khó khăn với ngôn ngữ; vấn đề với đọc, viết, làm việc với những con số.
- Khó tư duy và suy nghĩ logic.
- Không có khả năng tiếp nhận những điều mới hoặc đối phó với các tình huống bất ngờ.
- Hay có cảm giác bồn chồn, kích động, lo lắng, hay khóc và đi lang thang, đặc biệt là vào cuối buổi chiều hoặc ban đêm.
- Thỉnh thoảng hay lặp đi lặp lại một câu nói hay hành động nào đó và co giật cơ.
- Hay bị ảo giác, hoang tưởng hệ thống, hoang tưởng bộ phận, tính tình đa nghi và dễ bị kích động.
- Mất kiểm soát xung lực: Thể hiện qua hành vi như cởi quần áo vào những thời điểm hoặc địa điểm không phù hợp hoặc ngôn ngữ thô tục.
- Các vấn đề về động cơ tri giác.
Bệnh Alzheimer giai đoạn nặng
Bệnh nhân mắc Alzheimer thể nặng không thể nhận ra gia đình hoặc người thân và không thể giao tiếp bình thường. Họ hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác, và tất cả ý thức về bản thân dường như không còn.
Các triệu chứng khác của Alzheimer nặng có thể bao gồm:
- Giảm cân.
- Động kinh, nhiễm trùng da, khó nuốt.
- Rên rỉ và hay càu nhàu
- Ngủ nhiều.
- Thiếu kiểm soát bàng quang và ruột.
- Trong giai đoạn cuối Alzheimer, bệnh nhân có thể ở trên giường bệnh hết cả quãng đời còn lại. Bệnh nhân thường tử vong bởi những bệnh khác do nguyên nhân nằm lâu thường là viêm phổi, loét, nhiễm trùng.
3. BỆNH HỌC
Bệnh Alzheimer đặc trưng bởi việc mất dần nơ ron và xy náp thần kinh. Sự mất mát này dẫn đến chứng teo vùng bị ảnh hưởng. Teo vùng nào thì ảnh hưởng đến chức năng vùng đó.
Người ta vẫn chưa biết chính xác sự biến đổi trong việc sản xuất và tích tụ peptide amyloid beta đến mức độ nào thì gây ra bệnh Alzheimer
sự tích tụ của peptid amyloid beta là sự kiện trọng tâm kích hoạt việc thoái hóa nơ ron. Sự tích tụ của các vi sợi (fibril) amyloid, được coi là dạng có độc tố làm ngăn cản cân bằng ion canxi trong tế bào, kích hoạt sự chết theo chương trình (apoptosis).Đồng thời, Aβ cũng tích tụ nhiều hơn trong ti thể ở tế bào của não bệnh nhân Alzheimer, và nó cũng ức chế chức năng của một số enzym và việc sử dụng glucose trong nơ ron.
Các tế bào thần kinh khỏe mạnh được hỗ trợ bởi các vi ống là một đơn vị hình thành nên khung xương tế bào từ bên trong. Đây là con đường để dẫn truyền các chất dinh dưỡng và phân tử từ thân tế bào đến tận cùng sợi trục và quay trở lại. Tau là một loại protein giúp liên các và ổn định các vi ống khi được phosphoryl hóa. Ở bệnh Alzheimer, tau bị thay đổi về mặt hóa học, trở nên phosphoryl hóa quá nhiều; nó liên kết với các vi ống khác, tạo thành các đám rối thần kinh và làm hệ thống vận chuyển nơ ron bị trì trệ.
3. CHẨN ĐOÁN
Phương tiện chẩn đoán Alzheimer bao gồm:·
- Khám lâm sàng: Chẩn đoán lâm sàng về Alzheimer thường được thực hiện trong giai đoạn nhẹ của bệnh, sử dụng các dấu hiệu và triệu chứng được liệt kê ở trên.·
- Chọc dò tủy sống: nồng độ protein Tau và protein Tau được phosphoryl hóa trong dịch não tủy thường tăng cao trong Alzheimer, trong khi mức độ amyloid thường thấp; tuy nhiên, hiện nay, việc đo thường xuyên của nồng độ protein Tau và amyloid không được khuyến khích ngoại trừ trường hợp làm nghiên cứu.·
- Chẩn đoán hình ảnh: Các chẩn đoán hình ảnh đặc biệt quan trọng để loại trừ các nguyên nhân có thể điều trị được của sự suy giảm nhận thức tiến triển, chẳng hạn như tụ máu dưới màng cứng mạn tính hoặc tràn dịch não bình thường.
4. ĐIỀU TRỊ
Tất cả các loại thuốc được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn để điều trị Alzheimer là các liệu pháp điều trị triệu chứng, điều chỉnh các chất dẫn truyền thần kinh như acetylcholine hoặc glutamate. Một số thuốc tiêu chuẩn cho Alzheimer bao gồm các chất ức chế cholinesterase (ChEIs) và chất đối kháng N-methyl-D-aspartate (NMDA) một phần. Chúng ta không điều trị nguyên nhân cơ bản của Alzheimer cũng như ngăn chặn tốc độ suy giảm của nó.Các nhóm thuốc hướng tâm thần sau đây đã được sử dụng để điều trị các triệu chứng thứ phát của Alzheimer, như trầm cảm, kích động, ảo giác, hoang tưởng và rối loạn giấc ngủ.
- Thuốc chống trầm cảm.
- Thuốc giảm lo âu.
- Thuốc chẹn beta.
- Thuốc chống động kinh.
- Thuốc an thần kinh.
5. PHÒNG BỆNH
Không có phương thức nào chứng minh có thể ngăn ngừa bệnh. Nhưng thông qua bằng chứng phần lớn từ dịch tễ học cho thấy một lối sống lành mạnh có thể giảm nguy cơ phát triển bệnh. Vì vậy bạn có thể làm những điều sau đây để ngăn ngừa:
- Luyện tập thể dục.
- Ăn uống điều độ (chế độ ăn kiêng vùng Địa Trung Hải).
- Tham gia các hoạt động trí tuệ: đọc sách, chơi trò chơi tập thể….
- Tận hưởng cuộc sống đang có và không nên có ý nghĩ tiêu cực về bệnh
Thời gian từ lúc chẩn đoán đến khi tử vong thay đổi từ ít nhất là 3 năm đến chừng 10 năm trở lên. Bệnh nhân mắc Alzheimer khởi phát sớm có xu hướng diễn ra nhanh hơn, nhanh hơn so với những bệnh nhân mắc Alzheimer khởi phát muộn. Nguyên nhân chính gây tử vong là bệnh liên thời, như viêm phổi. Hãy luôn bên cạnh những người bệnh, chăm sóc họ và tham khảo bác sĩ để có những phương pháp điều trị tốt nhất
Nguồn: Medscape
————————————————————————————————————————————————-
“Y LÂM SÀNG là dự án mới, hàng ngày mang đến những case lâm sàng hay. Hy vọng mang lại những thông tin và kiến thức bổ ích cho các bạn sinh viên Y Khoa”.
Xem case lâm sàng hay tại địa chỉ: https://ykhoa.org/category/chuyen-de/ca-lam-sang
Tải ebook Y khoa miễn phí tại: https://ykhoa.org/category/ebook
Tra cứu Uptodate miễn phí tại: https://ykhoa.org/uptodate
Tham gia cùng làm việc tại địa chỉ: https://forms.gle/cQ5M7AdaesKCTcjt9
————————————————————————————————————————————————-