1.1. Động mạch
Động mạch là những ống dẫn máu từ tim tới lưới mao mạch, chúng chia nhảnh nhỏ đần, đoạn mạch nhỏ nhất nối tiếp với lưới mao mạch gọi là tiểu động mạch.
1.1.1. Cấu tạo chung
Từ trong ra ngoài, thành động mạch có ba lớp áo đồng tâm Hình 5-1).
1.1.1.1. Áo trong
Từ trong ra ngoài gồm ba lớp:
– Lớp nội mô: Là lớp mỏng nhất, hợp thành bởi những tế bào nội mô, nhân lối vào lòng mạch, bào tương mỏng.
– Lớp dưới nội mô: Là mô liên kết thưa, rải rác có những sợi cơ trơn.
– Màng ngăn chọn trong: Là một màng chun, ngăn cách áo trong với áo giữa, Màng ngăn chân trong có những cửa sổ (còn gọi là lỗ thủng), tạo điều kiện cho các chất qua lại.
1.1.1.2. Áo giữa
Là lớp dày nhất của động mạch. Áo giữa bao gồm nhiều lớp sợi cơ trơn chạy theo hướng vòng quanh lòng mạch, xen kẽ là những lá chun và sợi chun, những sợi collagen và chất gian bào proteoglycan. Ở những động mạch cỡ lớn, còn thấy những mạch của mạch ở lớp áo giữa và màng ngăn chăn ngoài định ranh giới giữa áo giữa với áo ngoài.
1.1.1.3. Áo ngoài
Là mô liên kết có nhiều sợi collagen và sợi chun chạy dọc theo động mạch. Ở những động mạch cỡ lớn, áo ngoài còn có những mạch của mạch, những mạch bạch huyết và dây thần kinh.
1.1.2. Phân loại động mạch
Căn cứ vào độ lớn của mạch và thành phần chiếm ưu thế của áo giữa, có. thể chia động mạch ra ba loại.
1.1.2.1. Động mạch chun
Những động mạch chun của cơ thể là động mạch chủ, động mạch phổi, động mạch cảnh tay đấu, động mạch dưới đòn, động mạch cảnh gốc, động mạch chậu gốc. Những động mạch chun có màu vàng và có khả năng đàn hồi,
– Áo trong: Lớp nội mô cách màng ngăn chun trong bởi một lớp mô liên kết thưa. Màng ngăn chun trong không điển hình như ở động mạch cơ. Áo giữa: Thành phần chun rất phong phú. Những lá chun có cửa sổ chạy theo hướng vàng, xếp thành nhiều lớp, liên hệ với nhau bởi những lá chun và sợi chun chạy theo hướng xiên. Xen kẽ giữa các lá chun là những lớp tế bào cơ trơn và sợi collagen chạy theo hướng đọc của mạch (Hình 52). Tất cả các thành phần trên được vùi trong một chất gian bào giàu proteoglycan Áo ngoài: Áo ngoài tương đối mỏng, gồm những nguyên bào sợi, những bộ sợi collagen chạy theo hướng dọc của thành mạch và một lưới thưa các sợi chun nhỏ. Thành những động mạch chun cỡ lớn còn có các mạch của mạch
1.1.2.2. Động mạch cơ
– Áo trong: Ở những động mạch cơ loại
nhỏ, áo trong không có lớp dưới nội mố. Ở tiêu bản cắt ngang qua mạch, rất dễ nhận biết màng ngăn chọn trong là một đường lượn sóng chạy theo hướng vòng, định ranh giới giữa áo trong và áo giữa (Hình 5-3). Màng ngăn chận trong có nhiều cửa sổ có kích thước khác nhau.
– Áo giữa: Những tế bào cơ trơn thường xếp thành nhiều lớp dày đặc chạy theo hướng vòng. Ở một số mạch, áo giữa còn có một số bó sợi cơ trơn mảnh chạy theo hướng dọc tại vùng sát với áo trong và vùng sát áo ngoài. Xen giữa các lớp cơ trơn là những lá chun mảnh và những sợi chun chạy theo hướng vòng.
Dưới kính hiển vi quang học, màng ngăn chun ngoài thường thể hiện là một đường lượn sóng liên tục ngăn cách áo giữa và áo ngoài.
– Áo ngoài: Áo ngoài gồm mô liên kết sợi, lưới sợi chun tập trung nhiều ở vùng gần màng ngăn chun ngoài, càng ra phía ngoài tỉ lệ sợi collagen càng tăng. Vùng ngoài cùng của áo ngoài là mô liên kết thưa có những đảm tế bào mỡ, những mô bào và dưỡng bào. Áo ngoài động mạch cơ loại lớn còn có những sợi cơ trơn chạy theo hướng dọc. Ở một số nơi như động mạch não, áo ngoài rất kém phát triển,
1.1.2.3. Tiểu động mạch
– Áo trong: Lớp lưới nội mô rất mỏng. Màng ngăn chun trong mỏng và có cửa sổ, nhưng ở các tiểu động mạch tận không còn màng này nữa.
– Áo giữa: Có từ 1 đến 5 lớp tế bào cơ trơn chạy theo hướng vòng (Hình 5-4). – Áo ngoài: Mỏng và kém phát triển.
Đoạn mạch ngắn (từ 50 đến 100um), chuyển tiếp từ tiểu động mạch sáng mao mạch dược gọi là tiểu động mạch tiền mao mạch hoặc vùng thắt tiền mao mạch. Ở đoạn mạch này, lớp nội mô dựa trên một màng đây mỏng, bên ngoài là một số sợi cơ trơn đứng phân tán, quây quanh lòng mạch, Tiểu động mạch tiền mao mạch điều chỉnh lượng máu đến mao mạch.
Những tế bào cơ trơn ở thành động mạch chun không có tác dụng làm thu hẹp đường kính lòng mạch, chúng tham gia làm thay đổi tính chất đàn hồi của thành mạch, | Những động mạch cơ vừa có tính đàn, vừa có tính co bóp do đó nó điều hoà được lưu lượng máu đến từng khu vực.
Tiểu động mạch giữ vai trò chính trong việc làm giảm áp suất và giảm tốc độ dòng màu đen mao mạch. Việc điều chỉnh lượng tế bào máu cho lưới mao mạch còn phụ thuộc vào hoạt tính của thắt tiền mao mạch. Trương lực cơ bản của thành mạch lại phụ thuộc vào hoạt tính của hệ thần kinh giao cảm đến chi phối.
1.2. Mao mạch
Mao mạch thường chia nhánh và nối với nhau thành lưới nằm giữa động mạch và tĩnh mạch, đường kính trung bình từ 9-12um. Lưới mao mạch có mặt độ dày đặc như ở: Phổi, gan, thận, các niêm mạc, tuyến, cơ bẩm xương và trong chất xám của não, có thể không có mao mạch như ở sụn; hoặc mật độ thưa như ở: Gần, thanh mạc, dây thần kinh và mô cơ trơn.
1.2.1. Cấu tạo
Thành mao mạch mông, từ trong ra ngoài gồm có:
1.2.1.1. Lớp nội mô
Là một hàng tế bào đa giác dẹt lợp mặt trong thành mao mạch. Phần bào tượng chứa nhân lỏi vào lòng mạch, phân bào tương ở ngoại vi tế bào toà thành lá mỏng. Các tế bào nội mô liên kết với nhau bởi những dải bịt hoặc mối liên kết khe, cũng có nơi bào tượng của hai tế bào chỉ chờm lên nhau.
Dưới kính hiển vi điện tử có thể thấy ở lá bào tương tế bào nội mô có những cửa sổ (hay lỗ nội mô), màng bào tương ở cả hai mặt tế bào có những vết lõm siêu vi, trong bào tường có những không bào vị ẩm. Những bào quan như lưới nội bào, ti thể, ribosom nằm rải rác nhưng tập trung nhiều quanh nhân; bộ Golgi nhỏ, thường nằm sát nhân (Hình 5-5).
1.2.1.2. Màng đáy
Dày khoảng 50nm bọc ngoài lớp nội mô, Một Lỗ mao mạch màng đáy củng cố cửa sổ. Ở một số lớp nội mô. Một số mao mạch,màng đáy cũng có cửa sổ. Ở một số nơi mao mạch không có màng đáy. Mặt ngoài màng đáy có sợi võng hoặc nhánh của một số loại tế bào bám vào.
1.2.1.3. Tế bào quanh mạch (pericyte)
Tế bào này có những nhánh bào tương dài bao quanh thành mạch và màng đáy bao lấy chúng cả phía trong và phía ngoài.
Trong bào tương có những bào quan như bộ Golgi, tỉ thể và lưới nội bào. Tế bào quanh mao mạch có khả năng co rút, kiểm soát dòng máu lưu thông trong các vi mạch. Phía ngoài màng đáy của nhiều mao mạch còn có tên bào ngoại mạc (adventitial cell), tế bào này kém biệt hoá có khả năng thực bào,
1.2.2. Phân loại mao mạch
Căn cứ vào đặc điểm các thành phần cấu tạo, có thể phân biệt ba loại mao mạch sau: Mao mạch kín, mao mạch có cửa sổ và mao mạch kiểu xoang.
1.2.2.1. Mao mạch kín
Đây là những mao mạch mà tế bào nội mô và màng đáy không có cửa sổ. Màng bào thương tế bào nội mô có nhiều vết lõm siêu vi và trong bào tương có nhiều không bào vị âm. Hầu hết các mao mạch kín đều có tế bào quanh mao mạch. Những mao mạch ở mô cơ,mô mỡ và hệ thần kinh trung ương thuộc loại mao mạch kín.
1.2.2.2. Mao mạch có cửa sổ
Những lá bào tương của tế bào nội mô có những cửa sổ (hay lỗ nội mô). Lỗ nội mô có đường kính khoảng 60-70nm (Hinh 5-6).
Loại mao mạch này có ở tiểu cầu thận, niêm mạc ruột, tuyến nội tiết, đám rối màng mạch, thể mi.
1.2.2.3. Mao mạch kiểu xoang
Mao mạch kiểu xoang có ở gan, lách, tuỷ xương và có đặc điểm:
– Đường đi ngoằn ngoèo, lồng rộng 30-40mm. Vì vậy dòng máu lưu thông trong các mao mạch này rất chậm.
– Khoảng gian bào giữa các tế bào nội mô rất rộng. Vì vậy, các tế bào máu và các chất có phân tử lượng lớn có thể ra vào lòng mạch dễ dàng
– Lớp nội mô có nhiều cửa sổ.
– Nhiều tế bào có khả năng thực bào ở quanh thành mao mạch.
– Không có màng đáy.
Những đặc điểm trên tạo điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi chất giữa máu và mổ, đồng thời các tế bào máu có thể chuyển qua thành mạch dễ dàng,
Mao mạch là nơi trao đổi chất giữa màu với tế bào và mô. Vì vậy, người ta còn phân biệt mao mạch dinh dưỡng và mao mạch thắng (hay mao mạch nối). Mao mạch dinh dưỡng có đặc điểm là: Tại nơi xuất phát, nó thường tạo ra với tiểu động mạch một góc nhọn hoặc góc vuông và tại đây có các điểm thắt tiền mao mạch, lòng không đều, có đường đi kiểu xoắn ốc. Máu lưu thông trong các mao mạch dinh dưỡng không liên tục. Mao mạch thẳng nối trực tiế từ tiểu động mạch đến tiêu tĩnh mạch; lòng thường đều đặn và rộng, không có điểm thất tiện mao mạch, máu lưu thông liên tục trong mao mạch.
Mao mạch là nơi chủ yếu của hệ tuần hoàn diễn ra sự trao đổi chất giữa mẩu và mố. Hệ thống lưới mao mạch chiếm một diện tích trao đổi khoảng 100mÝ, Với cấu tạo thành mạch đơn giản, tốc độ dòng chảy của máu rất chậm, mao mạch là nơi rất thuận lợi cho sự trao đổi khí, nước và các chất hoà tan khác giữa máu và mô.
Mao mạch có thể co giãn đo trương lực của lớp nội mô và được điều khiển bởi hệ thần kinh, Thành mao mạch tiếp xúc với lưới sợi thần kinh giao cảm phong phú. Sự điều hoà dòng máu ở mao mạch phụ thuộc vào sự co rút các sợi cơ trơn ở tiểu động mạch và cơ thắt tiền mao mạch.
Sự trao đổi chất giữa máu và mô qua thành mao mạch phụ thuộc vào tỉnh thẩm của thành mạch. Lỗ nội mô, hình thức vận chuyển vị ảm bảo, khoảng gian bào giữa các tế bào nội mô cho phép các chất lọt qua thành mao mạch có chọn lọc. Ở một số mao mạch, các enzyme do tế bào nội mô sản xuất ra và sự có mặt của các dại thực bào ở quanh thành mạch tạo nên hàng rào máu • mô. Trong cơ thể có nhiều hàng rào máu mô có ý nghĩa sinh lý như: hàng rào máu-mắt, máu-tuyến ức, màu-thần kinh và máu ống sinh tinh.
1.3. Tĩnh mạch
Tĩnh mạch dẫn máu từ các mao mạch về tim. Thông thường, tĩnh mạch đi kèm với động mạch tương ứng. Trên đường trở về tim, đường kính của tĩnh mạch lớn dần và thành cũng đầy dần lên.
1.3.1. Cấu tạo chung
So với động mạch, thành tĩnh mạch có những điểm khác sau (Hình 5-7):
– Thành tĩnh mạch mỏng hơn thành động mạch cùng cỡ.
– Không thấy màng ngăn chọn trong, các lá chun hướng vòng kém phát triển,
– Thành phần cơ ít hơn ở động mạch.
– Thành phần collagen hướng dọc phát triển mạnh.
Tĩnh mạch cũng có ba lớp áo nhưng không rõ ràng như ở động mạch. Từ trong ra ngoài có:
1.3.1.1. Áo trong
Phía ngoài lớp nội Iủ là lớp dưới nội mở kểm phát triển, có khi không có lớp này. Không có màng ngăn chun trong. Một trong nhiều tĩnh mạch cỡ trung bình có các van tĩnh mạch, đó là những nếp gấp hình bán nguyệt của lớp áo trung ở hai bên thành đôi diện nhau. Van không cho dòng máu chảy ngược chiều và tránh cho các tĩnh mạch, đặc biệt là tĩnh mạch ở chi không phải chịu trọng lượng của cả cột máu.
1.3.1.2. Áo giữa
Áo giữa tĩnh mạch mỏng hơn áo giữa động mạch cũng có, cấu tạo gồm những sợi cơ trận hưởng vòng, cách nhau bởi những sợi collagen và ít sợi chung Tỉ lệ các thủ nh phẳn áo giữa thay đổi tùy theo từng loại tĩnh mạch.
1.3.1.3. Áo ngoài
Áo ngoài là một bao mô liên kết gồm nhiều bó sợi collagen và lưới sợi chun chạy theo hướng dọc, xen kẽ là một số ít sợi cơ trơn.
1.3.2. Phân loại
– Căn cứ vào tỷ lệ giữa các thành phần cấu tạo của áo giữa, có thể chia tĩnh mạch và các loại sau:
+ Tĩnh mạch cơ: Thành phần chủ yếu của áo giữa là cơ trơn tĩnh mạch chi
. + Tĩnh mạch xơ: Áo giữa được cấu tạo bởi những sợi collagen, không có
cơ trơn tĩnh mạch não và màng não.
+ Tĩnh mạch hỗn hợp: Tĩnh mạch xơ-chun: Là những tĩnh mạch phía trên tim (tĩnh mạch nách, tĩnh mạch dưới đòn, tĩnh mạch cảnh).
Tĩnh mạch xơ – cơ: Là những tĩnh mạch ở vùng sâu của cánh tay.
Tình mạch cơ-chun có thành phần cơ chiếm ưu thế xếp thành ba lớp dọc. vong, dọc (tĩnh mạch chi dưới).
– Căn cứ vào đường kính của tĩnh mạch, có thể chia thành ba loại: Tiểu tĩnh mạch, tĩnh mạch cỡ trung bình và tĩnh mạch cỡ lớn. Sự phân loại này không hoàn toàn thoả đáng, vì cấu tạo thành mạch không phải là luôn tương xứng với đường kính của mạch. Hơn nữa, cấu trúc thành mạch của một tĩnh mạch cũng thay đổi tuỳ theo chiều dài của nó.
Tĩnh mạch là loại mạch có sức chứa và có thể tăng dung lượng tuần hoàn trước những thay đổi áp lực máu ở mức độ nhất định.
Ở những tĩnh mạch xơ trong sọ, ngoài sức hút của làng ngực, trọng lượng máu đủ làm cho máu lưu thông máu đủ làm cho máu lưu thông được. Những tĩnh mạch xơ-chun có thể co giãn được tiền để thích ứng với sự thay đổi khối lượng máu. Những tĩnh mạch có, do trương lực của thành mạch nền mạch bao giờ cũng ở trạng thái càng và ít bị giãn bởi sức nặng của cột máu. Hơn nữa, ở các tĩnh mạch thuộc loại này còn có các vận, vì vậy áp lực mau khi tăng lên trong chốc lát sẽ được phân tán trên toàn bộ chiều dài của mạch, Sự lưu chuyển màu từ tĩnh mạch về tim còn có sự tham gia của các cơ bắn xương quanh các tính mạch.
1.4. Những hệ thống cửa
Trong cơ thể, những lưới mao mạch thường xen giữa các nhánh tản của hệ động mạch và của hệ tĩnh mạch. Nhưng ở một số nơi, để phù hợp với chức năng đặc biệt, lưới mỡ mạch đã có những vị trí khác để tạo thành những hệ thống cửa: Hệ thống cửa tĩnh mạch (hệ thống Bánh) hình thành bởi một tĩnh mạch nằm xen giữa hai lưới mao mạch. Hệ thống cửa động mạch hình thành bởi một động mạch nằm xen giữa hai lưới mao mạch.
1.4.1. Hệ thống cửa tĩnh mạch
Hệ thống cửa tĩnh mạch ở gan bao gồm những lưới mao mạch ở ruột non và của một số cơ quan khác trong ổ bụng đắn máu qua tĩnh mạch cửa dễ tới gan
Hệ thống cửa tĩnh mạch dưới đồi-yên: Các mao mạch ở phần phễu của nắp trung gian tập trung máu đổ vào đám rối các tiểu tĩnh mạch chạy dọc cuống tuyến yên, sau đó chia nhảnh, đổ máu vào mao mạch kiểu X04 ng của thuỳ trước tuyến yên.
4.1.2. Hệ thống cửa động mạch
Trong cơ thể có một hệ thống cửa động mạch duy nhất là hệ thống cửa động mạch ở thận: Tiểu động mạch đến chia nhánh, hình thành chùm mao mạch Malpighi, những mao mạch này họp lại dễ đưa máu vào tiểu động mạch di. Tiểu động mạch đi dẫn máu tới lưới mao mạch bao quanh các đoạn tiến theo của ống sinh niệu.
1.5. Tim
Tim là một khối cơ rỗng gọi là cơ tim, được lợp ở mặt trong bởi màng trong tim (tương đương với áo trong của các mạch) và ở mặt ngoài loli màng ngoài tim mang tính chất một thanh mạc.
1.5.1. Màng trong tim
Màng trong tim (nội tâm mạc) giống áo trong của các mạch máu lô gót lớp nối mỏ và lớp dưới nội mô chứa các sợi collagen, sợi chun và những nguyên bào sợi.
Giữa màng trong tim và cơ tim là lớp mô liên kết gọi là lớp dưới nội tâm mục chứa lưới sợi chun, một số sợi cơ trơn, những mạch máu nhỏ, những sợi thần kinh và những bó sợi của hệ thống thần kinh tự động của tim (hệ thống nút)
Van tim là nếp gấp của màng trong tim. Trục của văn là một là xơ vững chắc, xuất phát từ vòng xơ của khung cơ tim ở các lỗ tim. Hai mặt van được nội mô bao phủ Xen giữa trục xơ và nội mô là lớp mô liên kết lỏng lẻo có nhiều Sợi than kinh nhưng không có mạch máu,
1.5.2. Cơ tim và hệ thống mổ nát (xem mô cơ)
1.5.3. Màng ngoài tim
Màng ngoài tim là một thanh mạc gồm hai là cách nhau bởi một khoang ảo chứa thanh dịch gọi là không ngoài tim.
– Lá tạng: Lá tạng phủ mặt ngoài khỏi cơ tim, mặt trồng vào khoang ngoài
tìm được phủ bởi lớp tế bào nội mô, giữa nội mổ và khối cơ tim là mô liên kết chứa nhiều sợi chun, tiểu thuỳ mở, mạch máu, sợi thần kinh và các tế bào hạch.
– Lá thành; Phía trong vào khoang ngoài tim là lớp tế bào dạng nội mô, Phía ngoài là lớp mô liên kết giàu sợi chun tiếp xúc với túi xơ của tim.
2.HỆ TUẦN HOÀN BẠCH HUYẾT
Hệ tuần hoàn bạch huyết khởi đầu bởi những mao mạch kín một đầu. Chủng thu nhận dịch mổ tập trung về mạch bạch huyết, kích thước mạch lớn dần và cuối cùng dẫn tới mạch bạch huyết quản gốc để về tim qua đường tĩnh mạch máu, Bạch huyết thường chảy qua một hay nhiều hạch bạch huyết kế tiếp nhau trước khi đổ vào tĩnh mạch. Khi chảy qua các hạch, bạch huyết được làm sạch bởi các tế bào có khả năng thực bào. Đồng thời bạch huyết mang theo các tế bào lympho và các yếu tố miễn dịch từ các hạch bạch huyết.
Mạch bạch huyết có thể thấy ở hầu hết các cơ quan, các mố; ngoại trừ ở hệ thần kinh trung ương, mô sụn, mô xương, tủy xương, tuyến ức, răng và rau.
2.1. Mao mạch bạch huyết
Thành của mao mạch bạch huyết có cấu tạo rất đơn giản, chỉ có một lớp tế bào nội mô đẹt, không có màng đáy. Nơi tiếp giáp giữa các tế bào nội mô, là bào tương chỉ chờm lên nhau. Khi chúng tách khỏi nhau, hình thành khoảng gian bào rộng. Mao mạch bạch huyết được tăng cường bởi những nhóm xơ nhỏ, một đầu các xơ liên hệ với màng bào tương phía ngoài tế bào nội mô, đẩu kia liên hệ với các bó sợi collagen của các mô quanh mao mạch Hình 5-8).
2.2. Mạch bạch huyết
Thành của mạch bạch huyết có cấu tạo tương tự như thành tĩnh mạch máu, nhưng mỏng hơn và rất khó phân biệt ba lớp áo.
Phía ngoài lớp nội mô là một lớp sợi chun mỏng, tiếp theo là một đến hai hàng tế bào cơ trơn chạy theo hướng vòng, ngoài cùng là lớp gồm các bó sợi collagen và sợi chun chạy theo hướng dọc và lẫn với mô liên kết ở quanh mạch, Mặt trong mạch bạch huyết có nhiều van, mật độ van nhiều hơn tĩnh mạch máu, đoạn mạch ở giữa hai van gần nhau thường phình ra. Van có vai trò quan trọng trong sự lưu thông bạch huyết theo một chiều trong mạch bạch huyết (Hình 5-9).
2.3. Bạch huyết quản gốc
Bạch huyết quản gốc (ống bạch huyết) gồm có ống bạch huyết phải và ống ngực. Thành của bạch huyết quản gốc tương tự như thành của các tĩnh mạch máu cơ lớn nhưng sự phân biệt ba lớp áo không rõ ràng và lớp cơ trơn ở lớp áo giữa ít phát triển hơn ở thành tĩnh mạch.
TỰ LƯỢNG GIÁ
- Hãy mô tả cấu tạo chung của mao mạch máu.
- Nêu được đặc điểm cấu tạo và vị trí trong cơ thể của ba loại mao mạch máu.
- Hãy mô tả cấu tạo chung của động mạch.
- Hãy mô tả cấu tạo của động mạch cơ.
- Hãy mô tả cấu tạo của động mạch chun.
- Hãy nêu những đặc điểm khác nhau giữa động mạch cơ và động mạch
- Hãy mô tả cấu tạo chung của tĩnh mạch.
- Hãy nêu những đặc điểm khác nhau giữa động mạch và tĩnh mạch.
- Hệ thống cửa: Định nghĩa và cho ví dụ cụ thể.
- Hãy mô tả những đặc điểm cấu tạo của hệ tuần hoàn bạch huyết.NGUỒN: MÔ – PHÔI PHẦN MÔ Học – SÁCH ĐÀO TẠO BÁC SĨ ĐA KHOA – NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC HÀ NỘI – 2007 Chủ biên: GS.TS. TRỊNH BÌNH
Xem tất cả mô phôi tại: https://ykhoa.org/category/mo-phoi/