1. Giới thiệu
Viêm loét dạ dày là một bệnh lý phổ biến ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, gây đau đớn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của người bệnh. Mặc dù bệnh lý này có thể điều trị được, nhưng nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, nó có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như chảy máu tiêu hóa, thủng dạ dày, hoặc ung thư dạ dày. Bài viết này sẽ phân tích về viêm loét dạ dày từ cấu trúc và chức năng của dạ dày, dịch tễ học, bên cạnh đó tìm hiểu sâu về giải phẫu bệnh, cơ chế bệnh lý, nguyên nhân và triệu chứng của bệnh.
2. Cấu trúc và chức năng
2.1. Giải phẫu dạ dày
hình ảnh giải phẫu dạ dày
Dạ dày là cơ quan thuộc hệ tiêu hóa hóa, nằm hoàn toàn trong ổ bụng. Dạ dày là đoạn phình to nhất của ống tiêu hóa, phía trên nối với thực quản qua lỗ tâm vị, còn phía dưới nối với tá tràng qua lỗ môn vị. Dạ dày có chức năng chính là dự trữ và tiêu hóa thức ăn. Nếu đối chiếu trên thành bụng, dạ dày thuộc vùng thượng vị, hạ sườn trái. Nhìn trên ảnh chúng ta có thể thấy dạ dày có hình chữ J, tuy nhiên với khả năng co dãn tốt thì dạ dày có hình dạng thay đổi tùy theo tư thế, thời điểm thăm khám hoặc trong dạ dày có đang chứa thức ăn hay không. Dạ dày có thể tích khoảng 2 đến 2.5 lít hoặc hơn [1].
a. Hình thể ngoài:
Dạ dày có 2 mặt: mặt trước và mặt sau, có 2 bờ là bờ cong vị lớn và bờ cong vị nhỏ, có 2 đầu: tâm vị ở trên và môn vị ở dưới. Từ trên xuống dưới dạ dày được chia thành 5 phần:
- Tâm vị:
– Là một vùng rộng khoảng từ 3-4cm, nằm giữa thực quản và dạ dày có lỗ tâm vị.
– Lỗ tâm vị không có van đóng kín, chỉ có nếp niêm mạc dày lên.
– Lỗ tâm vị nằm sau sụn sườn VII, trước thân đốt sống ngực X, cách đường giữa khoảng 2,5cm. - Đáy vị
– Là phần phình lên hình chỏm cầu, nằm bên trái tâm vị.
– Ngăn cách với thực quản bụng bởi khuyết tâm vị.
– Chứa khoảng 50cc không khí. - Thân vị
– Có hình trụ, 2 thành: thành trước và thành sau, 2 bờ: bờ cong vị lớn và bờ cong vị bé.
– Giới hạn trên: mặt phẳng ngang qua lỗ tâm vị.
– Giới hạn dưới: mặt phẳng đi qua khuyết góc của bờ cong vị nhỏ. - Phần môn vị:
– Hang môn vị: Tiếp nối với thân vị, chạy sang phải và hơi ra sau.
– Ống môn vị: Giống hình phễu đổ vào tâm vị. - Môn vị:
– Phía trước có tĩnh mạch trước môn vị.
– Nằm bên phải đốt sống thắt lưng I, giữa có lỗ môn vị thông môn vị với hành tá tràng [1].
b. Hình thể trong:
Bên trong dạ dày có cấu tạo gồm năm lớp:
- Lớp thanh mạc: Đây là lớp nằm ở ngoài cùng, thuộc lá tạng phúc mạc.
- Tấm dưới thanh mạc: Đây là tổ chức liên kết rất mỏng và gần như dính chặt vào lớp cơ, chỉ trừ phần ở gần hai bờ cong vị.
- Lớp cơ:
– Là lớp thích ứng với việc nhào trộn thức ăn trong dạ dày
– Từ ngoài vào trong có cấu tạo gồm:
+ Cơ dọc
+ Cơ vòng
+ Cơ chéo - Lớp dưới niêm mạc: Là tổ chức liên kết rất lỏng lẻo, dễ bị xô đẩy.
- Lớp niêm mạc: Đây là lớp lót bên trong dạ dày [1].
c. Mạch máu
Các động mạch chính nuôi dưỡng dạ dày bao gồm:
- Động mạch vị trái: Là nhánh nhỏ nhất nhưng là nhánh đầu tiên của động mạch thân tạng. Nó chạy lên trên và sang trái để đến bờ cong bé của dạ dày, cấp máu cho phần tâm vị và một phần bờ cong bé.
- Động mạch vị phải: Là nhánh của động mạch gan chung (là nhánh của thân tạng). Nó chạy sang trái dọc theo bờ cong bé, nối với động mạch vị trái tạo thành một cung động mạch dọc theo bờ cong bé.
- Động mạch vị mạc nối trái: Là nhánh của động mạch lách (là nhánh lớn nhất của thân tạng). Nó chạy dọc theo bờ cong lớn từ trái sang phải.
- Động mạch vị mạc nối phải: Là nhánh của động mạch vị tá tràng (một nhánh của động mạch gan chung). Nó chạy dọc theo bờ cong lớn từ phải sang trái, nối với động mạch vị mạc nối trái tạo thành một cung động mạch dọc theo bờ cong lớn.
- Các động mạch vị ngắn : Các nhánh nhỏ xuất phát từ động mạch lách, cấp máu cho đáy vị.
Hệ thống tĩnh mạch của dạ dày chạy song song với các động mạch tương ứng và đổ về tĩnh mạch cửa, một hệ thống tĩnh mạch đặc biệt dẫn máu từ các cơ quan tiêu hóa về gan để xử lý trước khi về tim [1].
d. Hệ thần kinh chi phối:
- Hệ Phó giao cảm: Do dây thần kinh X chi phối chủ yếu. Dây X bên trái đi xuống tạo thành thân X trước, chủ yếu chi phối mặt trước dạ dày và các tuyến tiết axit. Dây X bên phải đi xuống tạo thành thân X sau, chủ yếu chi phối mặt sau dạ dày và cơ thắt môn vị. Hoạt động của hệ phó giao cảm (thông qua dây X) làm tăng nhu động (co bóp) của dạ dày và tăng tiết dịch vị. Nó giống như “chân ga” thúc đẩy dạ dày làm việc.
- Hệ Giao cảm: Xuất phát từ các đốt tủy sống ngực thấp và đi đến dạ dày thông qua đám rối tạng (celiac plexus). Hoạt động của hệ giao cảm làm giảm nhu động và giảm tiết dịch vị. Nó giống như “chân phanh”, làm chậm hoạt động của dạ dày khi cần thiết (ví dụ, khi cơ thể đang phản ứng với stress). Các sợi giao cảm cũng mang tín hiệu đau từ dạ dày về trung ương thần kinh [1].
2.2. Sinh lý dạ dày
Sinh lý dạ dày liên quan mật thiết đến quá trình tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng của cơ thể. Dạ dày không chỉ chịu trách nhiệm phân hủy thức ăn thông qua các phản ứng cơ học và hóa học mà còn điều hòa hoạt động tiết dịch vị. Quá trình này giúp duy trì sự cân bằng nội môi trong cơ thể.
Dưới đây là các yếu tố chính của sinh lý dạ dày:
- Tiết dịch vị: Dạ dày sản xuất dịch vị bao gồm axit HCl, các enzym tiêu hóa như pepsin, và chất nhầy để bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi tổn thương.
- Các giai đoạn tiêu hóa: Dạ dày hoạt động qua ba giai đoạn: giai đoạn tâm vị, giai đoạn dạ dày (đáy vị và thân vị), và giai đoạn môn vị. Mỗi giai đoạn đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa thức ăn.
- Hoạt động của cơ dạ dày: Dạ dày có các cơn co bóp nhịp nhàng để nhào trộn thức ăn với dịch vị, giúp thức ăn phân hủy dễ dàng hơn [2].
a. Tiết dịch vị
Dịch vị được tiết ra từ các tuyến trong niêm mạc dạ dày, bao gồm HCl và pepsinogen. HCl làm cho môi trường dạ dày có tính axit (pH khoảng từ 1.5 đến 4.5), giúp kích hoạt pepsinogen thành pepsin để phân cắt protein thành các đoạn ngắn hơn. Đây là quá trình quan trọng cho tiêu hóa protein.
b. Biến đổi lý hóa thức ăn
Thức ăn sau khi vào dạ dày sẽ trải qua biến đổi lý học và hóa học:
- Biến đổi lý học: Các lớp cơ dạ dày co bóp liên tục để nhào trộn thức ăn với dịch vị, giúp thức ăn trở thành dạng nhuyễn (chyme).
- Biến đổi hóa học: Enzym pepsin phân hủy protein trong môi trường axit của dạ dày, trong khi lipase giúp tiêu hóa các chất béo đã nhũ tương hóa như trong sữa.
c. Cơ chế điều hòa dịch vị
Quá trình tiết dịch vị được điều hòa qua hệ thống thần kinh và hormone. Hormone gastrin là một yếu tố quan trọng kích thích dạ dày sản xuất HCl, trong khi somatostatin ức chế tiết axit để cân bằng [2].
Thành phần | Chức năng |
---|---|
HCl | Tạo môi trường axit để kích hoạt pepsin và tiêu hóa protein |
Pepsin | Phân giải protein thành các chuỗi ngắn hơn |
Chất nhầy | Bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi tác động của axit |
3. Dịch tễ học
a. Tỷ lệ mắc và xu hướng toàn cầu
Viêm loét dạ dày là một bệnh lý tiêu hóa phổ biến trên toàn cầu. Theo nghiên cứu của Xie et al. (2022), mặc dù tỷ lệ mắc bệnh đã giảm trong những năm gần đây, bệnh vẫn ảnh hưởng đến hàng triệu người mỗi năm. Các quốc gia có điều kiện sống tốt và tiếp cận dịch vụ y tế dễ dàng có tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn, trong khi các quốc gia đang phát triển lại có tỷ lệ mắc cao hơn do sự phổ biến của nhiễm Helicobacter pylori và thói quen sử dụng thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) ở mức độ cao hơn [3].
b. Sự khác biệt theo giới và độ tuổi
Nghiên cứu của Li et al. (2023) chỉ ra rằng tỷ lệ mắc viêm loét dạ dày ở nam giới cao hơn nữ giới. Nhóm tuổi từ 45 đến 65 có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất, và nguy cơ bệnh tăng dần khi tuổi tác càng cao, đặc biệt là sau 60 tuổi, do sự thay đổi trong cơ chế bảo vệ niêm mạc dạ dày và gia tăng các yếu tố nguy cơ khác như vi khuẩn Helicobacter pylori và sử dụng NSAIDs [4].
c. Tỷ lệ mắc theo khu vực
Theo nghiên cứu của Xie et al. (2022), tỷ lệ mắc PUD cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các khu vực trên thế giới. Các quốc gia có mức sống cao và tiếp cận tốt với các dịch vụ y tế, như Bắc Mỹ và châu Âu, có tỷ lệ mắc thấp hơn, trong khi các quốc gia có điều kiện sống thấp và chế độ dinh dưỡng không lành mạnh như ở Đông Nam Á và châu Phi lại có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn [3].
4. Giải phẫu bệnh và cơ chế bệnh lý
4.1. Giải phẫu bệnh
a. Đại thể
Loét mạn tính thường có đặc điểm có hình tròn hoặc hình bầu dục, đường kính 1 – 2cm, nhưng cũng có thể nhỏ một vài mm, hoặc lớn > 5cm. Đáy thường phẳng, phủ một lớp thanh tơ huyết màu vàng nâu gọi là màng dạng fibrin (manbrance fibrinoid); bờ đều đặn, niêm mạc bao quanh sưng phù. Niêm mạc hội tụ về phía ổ loét và được xóa đi khi đến tận bờ ồ loét. Ố loét thường có hình tròn hoặc bầu dục, một số ít có hình thẳng (ulcer linaire), hình sao hoặc loét hình loang lổ (loét Salami), về hình thái người ta còn chia các loại sau:
– Loét nông: Là ổ loét cạn chỉ làm mất niêm mạc còn lớp cơ niêm mạc vẫn còn nguyên vẹn; loét sâu thường ăn sâu quá lớp cơ thành dạ dày.
– Loét non: Là loét mới xảy ra trong vòng một vài tháng, ổ loét thường có màu đò hồng, đáy có nhiều mô hạt, sung huyết.
– Loét già: Là ổ loét kéo dài nhiều năm thường là trên 5 năm, ổ loét nhạt màu, do xơ dày nhăn nhúm [5].
b.Vi thể
Đáy ổ loét tạo bởi mô hạt viêm và xơ hóa, tẩm nhuận các nang lympho. Ở vùng mép ổ loét lớp cơ niêm bị gián đoạn, bị co kéo bởi tổ chức xơ, và nó bị xóa nhòa vào lớp cơ niêm.
Sau khi lành sẹo, có một sẹo co rút các lớp niêm mạc, cũng như sự dính liền lớp niêm mạc và hạ niêm mạc lại với nhau.
Loét cấp được phân biệt với loét mạn do không có phản ứng viêm và xơ co kéo, thường được phát hiện do biến chứng của nó như chảy máu hoặc thủng.
4.2. Cơ chế bệnh sinh
Trước đây người ta cho rằng “No gastric acid, no peptic ulcer”. Tuy nhiên, tiết acid dạ dày quá nhiều chỉ là một yếu tố trong bệnh sinh của bệnh Loét dạ dày-tá tràng. Khả năng bảo vệ niêm mạc chống lại tác động phá hủy của acid dạ dày bị giảm cũng là căn nguyên gây loét. Tính toàn vẹn của đường tiêu hóa trên phụ thuộc vào tình trạng cân bằng giữa các yếu tố “phá hủy” như acid dạ dày, H.pylori, NSAIDs và pepsin và các yếu tố “bảo vệ” như prostaglandins, chất nhầy, bicarbonate và lưu lượng máu đến niêm mạc ảnh hưởng đến niêm mạc dạ dày ruột.
Bình thường, tế bào biểu mô của dạ dày hoặc tá tràng tiết chất nhầy chống lại những kích thích lớp biểu mô và kích thích cholinergic. Bề mặt niêm mạc dạ dày và tá tràng được phủ một lớp gel, lớp này không thấm acid và pepsin. Những tế bào nhầy c a dạ dày và tá tràng tiết bicarbonate, bicarbonate giúp đệm lớp acid nằm kề cận niêm mạc. Prostaglandins E (PGE) có vai trò quan trọng trong bảo vệ niêm mạc dạ dày, vì PGE làm tăng sản xuất bicarbonate và chất nhầy.
Trong trường hợp acid và pepsin đi vào tế bào biểu mô, có những cơ chế hỗ trợ để giảm bớt tổn thương. Bơm ion trong màng của các tế bào biểu mô giúp điều hòa pH trong tế bào bằng cách loại bỏ các ion hydrogen. Do tiến trình phục hồi, những tế bào lành sẽ di chuyển đến vị trí tổn thương. Dòng máu niêm mạc loại bỏ acid khuếch tán vào niêm mạc bị tổn thương và cung cấp bicarbonate cho tế bào biểu mô bề mặt. Trong điều kiện bình thường, cân bằng sinh lý giữa tiết acid dạ dày và bảo vệ niêm mạc dạ dày tá tràng [5].
Tổn thương niêm mạc dạ dày và tá tràng xảy ra khi tác động có hại của acid dạ dày lấn át tính chất bảo vệ niêm mạc, cơ chế tổng hợp prostaglandin nội sinh làm giảm tiết bicarbonate, nhầy của tế bào biểu mô, giảm lưu lượng máu đến niêm mạc, giảm tăng sinh tế bào biểu mô và sức đề kháng của niêm mạc với chấn thương. Sức đề kháng của niêm mạc giảm khiến niêm mạc dễ bị tổn thương bởi những yếu tố nội sinh như acid, pepsin và acid mật và những yếu tố ngoại sinh như NSAIDs, rượu và các chất độc hại khác [6].
Như vậy, tổn thương niêm mạc và loét dạ dày-tá tràng xảy ra khi tình trạng cân bằng giữa các yếu tố phá hủy và cơ chế bảo vệ bị phá vỡ. Những yếu tố phá hủy như NSAIDs, nhiễm H.pylori, rượu bia, muối mật, acid và pepsin có thể làm thay đổi khả năng bảo vệ niêm mạc cho phép các ion hydrogen khuếch tán ngược và làm tổn thương tế bào biểu mô. Những cơ chế bảo vệ gồm tình trạng liên kết chặt chẽ giữa các bào, chất nhầy, dòng máu của niêm mạc, quá trình phục hồi tế bào và tình trạng tái sinh biểu mô.
Tài liệu tham khảo
[1] Giải phẫu Học, Nguyễn Quang Quyền. Giải phẫu hệ tiêu hóa, giải phẫu dạ dày.[2] Giải phẫu sinh lý dạ dày : tìm hiểu về cấu trúc và chức năng dạ dày. Sức Khỏe 4, Memart.
[3] Xie, X., et al. (2022). The global, regional and national burden of peptic ulcer disease: A systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2019. BMC Gastroenterology, 22(1)
[4] Li, Y., et al. (2023). Global prevalence of Helicobacter pylori infection between 1980 and 2022: A systematic review and meta-analysis. The Lancet Gastroenterology & Hepatology, 8(6), 498–499.
[5] Gyawali CP, Manasra A (2010). Gastrointestinal Diseases. In: Foster C, Mistry FN, Peddi FP, Sharma S. The Washington Manual of Medical Therapeutics, 33rd ed., 596-599. Wolters Kluwer Lippincott Williams &Wilkins, United States.
[6] Gyawali CP (2012). Upper Gastrointestinal Bleeding. In: Kollef M, Isakow W. The Washington Mannual of Critical Care. 2nd 397-407. Wolters Kluwer Lippincott Williams & Wilkins, USA.