Tôi đã từng hỏi nhiều người, hầu hết không biết Việt Nam đã tự sản xuất được vaccine cách đây đúng 60 năm. Nhưng khi hỏi về lọ thuốc đường ngọt lịm được uống ở trạm xá khi còn nhỏ, kí ức nghèo khó của những đứa trẻ được nếm hương vị “hạnh phúc” lại hiện về, nên ai cũng nhớ. Vị thuốc ấy chính là vắc xin phòng bại liệt. Đặc biệt hơn, vaccine đó được sản xuất bởi những người Việt rất trẻ, đều ở trong độ tuổi hai mươi.
Bại liệt là căn bệnh gây nỗi kinh hoàng với cả thế giới, hàng ngàn trẻ nhỏ bị sốt không rõ nguyên nhân, sau đó đột ngột không thở được, liệt không đồng đều, rồi tử vong; những trẻ may mắn sống sót để lại di chứng tàn tật suốt đời.
Hãy nghe tâm sự đau đớn của một người cha có con bị bại liệt trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “The Nemesis”: “Khi đưa con đến bệnh viện, bác sĩ ngay lập tức tách con ra khỏi chúng tôi. Từ đó tôi không bao giờ gặp lại con trai mình nữa. Nó chết trong cô đơn như thế. Chúng tôi không thể chào tạm biệt con, bây giờ chỉ còn tủ quần áo, chỉ còn đúng một tủ quần áo để chúng tôi nhìn vào.”
Vào mùa hè năm 1921, một người đàn ông 38 tuổi bị rơi xuống hồ, ông vô tình uống mấy ngụm nước và chẳng may bị nhiễm vi rút bại liệt, sau đó bị liệt nửa người. Người đàn ông đó sau này được bầu làm Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt.
Việt Nam những năm 1950, dịch bệnh bại liệt hoành hành khắp cả nước, để phòng bệnh, người dân chỉ còn biết giữ con mình ở trong nhà. Tỉ lệ mắc bại liệt thời điểm đó là 126/100.000 dân. Trước thực trạng nguy hiểm đó, Bộ trưởng Bộ Y tế là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã giao cho bác sĩ Hoàng Thủy Nguyên nhiệm vụ chế tạo vắc xin phòng bại liệt.
Vừa bước sang tuổi 30, bác sĩ Hoàng Thủy Nguyên với niềm đam mê và hăng hái của tuổi trẻ, ông thành lập một đội ngũ những người trẻ không biết sợ khó khăn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách để hoàn thành nhiệm vụ.
Nhóm nghiên cứu đã chọn một đảo hoang ở vịnh Bái Tử Long làm nơi nuôi khỉ Macaca Mulatta, để nghiên cứu phân lập virus làm vaccine. Thời điểm đó, mọi thiết bị đều không có, Tiến sĩ Yvonne Capdeville, người phụ trách Ủy ban Hợp tác Khoa học – Kĩ thuật Pháp Việt đã phải vận động quyên góp từ giới trí thức Paris mua tặng nhóm nghiên cứu một kính hiển vi điện tử.
Năm 1962 vaccine bại liệt của Việt Nam chính thức ra đời và thử nghiệm lâm sàng. Câu hỏi đặt ra ai sẽ là người thử nghiệm đầu tiên, bởi vaccine là virus sống giảm độc lực, nên chỉ cần sai sót nhỏ sẽ phải trả giá rất đắt bằng tính mạng. Tại cuộc họp “thử nghiệm” vaccine, Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch chủ trì, ông yêu cầu mang 2 lọ vaccine vào hội trường. “Cậu mở 1 lọ ra” – Bộ trưởng yêu cầu bác sĩ Hoàng Thủy Nguyên – “Cậu hãy uống đi!”. Bác sĩ Hoàng Thủy Nguyên là người thử vaccine đầu tiên. Tiếp theo, Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch tự tay mở lọ thứ 2, ông uống hết; thử nghiệm ban đầu đã thành công theo cách như thế.
Vaccine vô hại với người lớn, nhưng liệu có an toàn cho trẻ em, hầu hết bệnh nhân bại liệt là trẻ em nên chỉ khi thử nghiệm đạt hiệu quả trên trẻ em thì mới được coi là thành công. Lúc này, những người tham gia nghiên cứu sản xuất vaccine, những y bác sĩ ở các bệnh viện bắt đầu nghĩ đến con của họ.
Câu chào nhau mỗi buổi sáng ở viện sẽ là: con bạn có sao không?
May mắn thay, một lần nữa, vaccine đã thử nghiệm thành công với con em nhân viên y tế. Hàng triệu liều đã được sản xuất, vaccine đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, bệnh bại liệt dần dần được thanh toán.
Cùng thời điểm đó, vaccine bệnh đậu mùa cũng được nghiên cứu thành công vào năm 1962 bởi chính những người Việt trẻ tuổi ấy, công nghệ sản xuất vaccine được làm chủ, chương trình tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam nhanh chóng một điểm sáng, bởi hầu hết vaccine trong chương trình đều tự sản xuất mà không lệ thuộc vào sự viện trợ của nước ngoài.
Những ngày này, truyền thông phương Tây khá ồn ào về chính sách ngoại giao vaccine (vaccine diplomacy). Các quốc gia có khả năng nghiên cứu và sản xuất vaccine đang cố gắng “mở rộng ảnh hưởng” trên quy mô toàn cầu nhằm tăng cường quyền lực mềm. Mỹ chủ yếu cung cấp vaccine cho các nước giàu có. Trung Quốc cam kết cung cấp vaccine cho những quốc gia mang lại giá trị chiến lược, bao gồm các đối tác chính trị và kinh tế quan trọng ở Trung Đông, Mỹ Latinh và Đông Nam Á. Ấn Độ cũng không giấu diếm chính sách ngoại giao vaccine ở Nam Á nhằm đẩy lùi Trung Quốc, các nguồn tin từ chính phủ mới đây cho biết, Ấn Độ đã và sẽ cung cấp hàng triệu liều vaccine COVID-19 cho các nước trong khu vực.
Ngoại giao vaccine sẽ dẫn tới sự phân phối không đồng đều. Theo số liệu công bố của Citigroup, 85% số vaccine COVID-19 sản xuất ở các nước phương Tây theo kế hoạch đã được các nước phát triển đặt mua từ trước, trong đó chủ yếu là Hoa Kỳ, Anh, Úc, Canada, Nhật Bản và các nước thuộc khối Liên minh Châu Âu. Số lượng vaccine đặt hàng vượt xa dân số của các nước. Hậu quả của việc tích trữ vaccine một cách điên cuồng là các quốc gia nghèo trên thế giới sẽ không có vacinne.
Truy cập vào các dữ liệu thống kê, ví dụ như biểu đồ theo dõi đơn đặt hàng mua vaccine của Đại học Duke, tôi nhận thấy các quốc gia đang phát triển như Việt Nam muốn có vaccine phương Tây, sẽ phải chờ đợi không biết đến bao giờ. Chưa kể, với nhu cầu quá lớn như hiện nay, giá cả vaccine đang bị đẩy lên rất cao, sẽ là một thách thức không hề đơn giản.
Khái niệm “ngoại giao vắc xin” lần đầu tiên xuất hiện ở phương Tây, bắt đầu từ các cuộc Chiến tranh của Napoléon những năm đầu thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, bác sĩ người Anh Edward Jenner đã nghiên cứu và quảng bá vaccine bệnh đậu mùa, toàn bộ binh lính Pháp được tiêm chủng, Napoléon đáp lại bằng cách thả hàng ngàn tù nhân cùng một số nhà khoa học người Anh.
Lịch sử cho chúng ta thấy, khi coi vaccine như lá bùa duy nhất hiệu nghiệm và không được phân bố đồng đều, thì virus sẽ không bị diệt trừ. Dịch bệnh đậu mùa là bài học quý giá. Việc thế giới chỉ nhìn vào vaccine với vẻ đẹp long lanh của công nghệ cao, hơn 300 triệu người đã chết trong suốt 80 năm của thế kỉ XX. Chỉ đến khi Mỹ và Liên Xô hợp tác để phân phối vaccine rộng rãi, cùng với những nỗ lực của tất cả các quốc gia trên toàn cầu bằng những hành động cụ thể như giám sát, phát hiện, truy tìm tiếp xúc, cách li và điều trị, cùng với truyền thông đại chúng; thì bệnh đậu mùa mới được thanh toán vào năm 1980.
Đại dịch COVID-19 xảy ra, ở thời điểm xuất hiện những ca bệnh đầu tiên, trên bảng xếp hạng Chỉ số An ninh Sức khỏe toàn cầu (Global Health Security Index) Việt Nam xếp thứ 50. Mỹ luôn xếp thứ nhất và Anh luôn xếp thứ 2. Tốp đầu là những quốc gia giàu có ở châu Âu. Khu vực Đông Nam Á cũng có những đại diện xuất sắc, đó là Thái Lan xếp thứ 6, Malaysia xếp thứ 16, Singapore và Indonesia lần lượt xếp thứ 24 và 26.
Quan sát những quốc gia giàu có, tôi nhận thấy cách phòng chống dịch COVID-19 chủ yếu dựa vào sức mạnh y học công nghệ cao, tôn vinh vaccine, kì vọng sự xuất hiện của vaccine sẽ kết thúc đại dịch. Thực tế, loài người đang sống trong một thế giới với những đường biên cực kì xốp, trong khi chủ nghĩa cá nhân tự do lại được đề cao, đó là điều kiện vô cùng thuận lợi để virus SARS-CoV-2 phát triển và lây lan. Đến nay, đã có hơn 4000 biến thể virus, đặc biệt là biến thể từ nước Anh đe dọa 70 quốc gia có ca nhiễm, thêm một biến thể ở Nam Phi với khả năng lây lan khủng khiếp hơn nhiều so với biến thể ở Anh. Vaccine COVID-19 đã ra đời với thời gian ngắn kỉ lục, chỉ mất 9 tháng thay vì 9 năm, nhưng đang có nguy cơ rơi vào vòng xoáy ngoại giao vaccine. Đó là những lí do để tôi lo ngại virus SARS-CoV-2 cũng sẽ tương tự bệnh đậu mùa, kể từ khi có mặt vaccine và được tiêm chủng mạnh mẽ, nhưng virus vẫn khuynh đảo khắp thế giới hơn 150 năm.
Là quốc gia đang phát triển, kinh tế nghèo hơn so với mặt bằng thế giới và khu vực, nguồn lực y tế có hạn, thứ hạng GHSI không cao; khi WHO công bố đại dịch, thế giới mặc định Việt Nam sẽ bị virus tàn phá. Thực tế ngược lại, chính phủ Việt Nam đặt đất nước vào tình trạng nguy hiểm đặc biệt, từ đó phát động cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên khoa học và kinh nghiệm, chúng ta từng bước vượt qua những thời khắc hiểm nghèo và giành chiến thắng, trở thành ngọn hải đăng phòng chống dịch với chi phí rẻ nhất và hiệu quả cao nhất.
Chỉ tập trung vào tiêm chủng sẽ không kết thúc được bệnh đậu mùa, ngược lại nếu không có vaccine thì đậu mùa sẽ là thảm họa với nhân loại, tôi cho rằng đó là bài học vô cùng quan trọng với đại dịch COVID-19. Chúng ta đã đầu tư nghiên cứu vaccine COVID-19, vaccine đầu tiên thử nghiệm giai đoạn 1 đã thu được kết quả mong đợi, đang tiến hành thử nghiệm vaccine thứ hai. Để không bị cuốn vào thế giới ngoại giao vaccin, theo tôi, Việt Nam bắt buộc phải sản xuất thành công vaccine COVID-19. Một lần nữa chúng ta cần đặt vaccine COVID-19 vào một cuộc chiến. Việt Nam bằng ý chí và nghị lực mãnh liệt đã lập kì tích sản xuất thành công vaccine đậu mùa và bại liệt vào năm 1961, đến nay đã sản xuất được tất cả vaccine trong chương trình tiêm chủng mở rộng, nếu đặt vaccine COVID-19 vào một cuộc chiến mới tôi tin chúng ta sẽ thành công.
Với dân số gần 100 triệu, Việt Nam không thể là quốc gia nhỏ bé, chỉ có thể là quốc gia mạnh hay yếu. Chiến thắng COVID-19 bằng mô hình phòng chống dịch theo cách của Việt Nam, cùng với vaccine tự sản xuất, thì đó sẽ là cơ hội để Việt Nam chủ động đóng đưa ra những cam kết và trách nhiệm đối với thế giới.
========
P/s: Bài viết được trích đăng trong mục GÓC NHÌN của Vnexpress (link dẫn trong commet).
BS. Trần Văn Phúc