Hơn một nửa số người sống chung với HIV và tải lượng vi rút bị ức chế, tuy nhiên họ đã mắc bệnh mạch vành được xác nhận bằng hình ảnh – mặc dù đã sử dụng các loại thuốc điều trị HIV trong thời gian dài liên quan đến vấn đề tim mạch, nhưng không loại thuốc nào trong số đó liên quan đến nguy cơ mắc các bệnh trong nghiên cứu này.
“Các yếu tố nguy cơ truyền thống và thời gian lây nhiễm của HIV có liên quan đến bệnh mạch vành nghiêm trọng”, Tiến sĩ Andreas Knudsen, nhà cung cấp dịch vụ bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện Đại học Copenhagen, Hvidovre, Đan Mạch, cho biết trong bài trình bày của mình tại Hội nghị AIDS Châu Âu lần thứ 18. “Khi chúng ta điều chỉnh thời gian kể từ khi chẩn đoán nhiễm HIV, thì không có loại thuốc nào còn liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh mạch vành.
Đáng chú ý, điều đó bao gồm abcavir, được tìm thấy trong một bài thuyết trình khác của EACS và trong nghiên cứu trước đây liên quan đến tăng tỉ lệ nhồi máu cơ tim. Abacavir được bán riêng lẻ dưới dạng thuốc generic cũng như một thành phần của Epzicom (abacavir/lamivudine) và phác đồ dùng đơn thuốc Triumeq (dolutegravir/abacavir/lamivudine).
Nghiên cứu Copenhagen Comorbidity in HIV Infection (COCOMO) đã thu hút 1099 người nhiễm HIV tại Thủ đô Đan Mạch bắt đầu từ năm 2015, và 705 người trong trong số họ đã được chụp mạch qua CT có sẵn để đưa vào kết quả. Những người tham gia hầu hết đều là nam giới (89%), có cân nặng khoẻ mạnh (BMI = 25), và 96% có tải lượng virus không thể phát hiện được.
Phần lớn những người tham gia cũng có các yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch vành. Hơn ¼ hút thuốc, 1/5 có cholesterol cao và 42% có cao huyết áp. Ngoài ra, nhiều người đã sử dụng các loại thuốc có liên quan đến vấn đề tim mạch, bao gồm abacavir, mà 26% người tham gia đã sử dụng; có 17% người tham gia sử dụng indinavir; 47% đã dùng zidovudine/AZT; 14% sử dụng didanosine. (Trong khi abacavir vẫn còn được sử dụng, ba loại thuốc còn lại được coi là thuốc di sản và hiện không được sử dụng)
Ngoài ra, gần 1/3 (29%) hiện đang sử dụng chất ức chế protease, có liên quan đến suy tim.
Khi các nhà điều tra xem xét CT của những người tham gia, họ phát hiện ra rằng theo hệ thống tính điểm của Hệ thống dữ liệu và Báo cáo bệnh động mạch vành (CAD-RAMS), gần một nửa (46%) có động mạch rõ ràng và không có các dấu hiệu của bệnh mạch vành. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là 54% bị tắc nghẽn hoặc xơ cứng động mạch. Tín tốt là 27% trong số những người này bị bệnh mạch vành ở mức tối thiểu hoặc nhẹ.
Nhưng có tới 17% được xác nhận mắc bệnh mạch vành do tắc nghẽn, và 1/10 số người tham gia khác lại có mức độ tắc nghẽn cao nhất. Khi chia nhỏ dữ liệu theo các yếu tố nguy cơ mắc bệnh mạch vành liên quan đến thuốc truyền thống và HIV, họ đã tìm thấy một số điều thú vị. Mặc dù béo phì có liên quan đến sự hiện diện của xơ vữa động mạch, nhưng nó không liên quan đến bệnh nặng. Nhưng đái tháo đường ngược lại với điều đó: nó không liên quan đến sự hiện diện của bệnh, nhưng nó lại liên quan đến bệnh nặng hơn.
Và khi họ xem xét abacavir, họ không tìm thấy mối liên quan giữa thuốc và chứng xơ vữa động mạch. Knudsen cho biết: “Abacavir không liên quan đến sự hiện diện của xơ vữa động mạch và cũng không liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh”.
Mặc dù việc sử dụng AZT, indinavir, và didanosine trong quá khứ có liên quan đến mức độ nghiệm trọng của chứng xơ vữa động mạch, những mối liên quan đó đã biến mât khi Knudsen và nhóm nhiên cứu điều chỉnh các phát hiện về thời gian kể từ khi chẩn đoán . Điều liên quan đến xơ vữa động mạch là thời gian sống chung với HIV. Cứ 5 năm mỗi một người sống chung với HIV, nghiên cứu lại cho thấy nguy cơ bị xơ vữa động mạch tăng 20% và mức độ nghiêm trọng tăng 23%. Ngoài ra, đàn ông có liên quan đến nguy cơ bị xơ vữa động mạch tăng gần 2,5 lần và tăng 96% khả năng bị xơ vữa động mạch nặng hơn. Mắc bệnh đái tháo đường có liên quan đến nguy cơ xơ vữa động mạch tăng gấp ba lần, cũng như mỗi thập kỷ lại có thêm một người đang sống chung với HIV.
Các phát hiện xác nhận dữ liệu cơ bản của thử nghiệm REPRIEVE, gần đây đã công bố dữ liệu cho thấy tỷ lệ mảng xơ vữa động mạch cao tương tự ở những người nhiễm HIV không đăng ký là “có nguy cơ” mắc bệnh tim mạch bằng cách sử dụng các phương pháp tính điểm truyền thống.
Steven Grinspoon, MD, Giáo sư tại Trường Y Harvard ở Boston, Masschussetts và điều tra viên chính của REPRIEVE cho biết: “Điều quan trọng ở chỗ đó là một nghiên cứu khổng lồ xác nhận [về] những gì chúng ta biết, đó là có mức độ cao của bệnh mạch vành ở những người sống chung với HIV”
Đối với việc thiếu mối liên quan giữa abacavir và nguy cơ tim mạch, anh ấy nói rằng anh ấy đang xem xét các phát hiện với một chút muối.
Anh nói “Thật khó để biết thêm được nhiều từ điều đó”. “Thật khó để biết trong một nghiên cứu cắt ngang. Mọi người đặt họ vào những thứ khác nhau.”
Ở Tây Ban Nha, nơi mà Jose Ignacio Bernardino, MD, điều trị cho những người nhiễm HIV tại Bệnh viện Đại học La Paz ở Madrid, abacavir là một điểm tranh luận chủ yếu, vì các bác sĩ lâm sàng từ lâu đã không duy trì cho những người nhiễm HIV theo bất kỳ phác đồ nào có abacavir. Ông nói với Medscape Media News, điều quan trọng hơn trong nghiên cứu là mực độ rủi ro cao “đáng lo ngại”. REPRIEVE sẽ kiểm tra xem statin có thể làm giảm bệnh tim ở những người nhiễm HIV hay không. Nhưng trong khi chờ đợi, ông cho biết điều quan trọng nhất đối với bác sĩ lâm sàng từ nghiên cứu là tầm quan trọng hàng đầu của các yếu tố nguy cơ tim mạch.
Chúng tôi phải thừa nhận rằng yếu tố nguy cơ tim mạch chính là tuổi tác. Khi bệnh nhân sắp bước sang tuổi 50, tôi thường cố gắng nhấn mạnh nhiều về các yếu tố nguy cơ tim mạch nói chung. Tôi nhấn mạnh lối sống lành mạnh – tập thể dục, tăng huyết áp, glucose, lipid – ở mỗi bệnh nhân.”
Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/962421?fbclid=IwAR2IJitKtmLWAVwiuQserGtvydgB3OWyuBcbc36bUcAA947DHOLlLxyE1DE#vp_1
Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi ykhoa.org – vui lòng không reup khi chưa được cho phép!
Người dịch: Thuỳ Linh