Một nghiên cứu mới đã hỗ trợ thêm cho ý kiến rằng dùng cà phê có ảnh hưởng đến việc giảm nguy cơ phát triển bệnh Parkinson và cho thấy rằng caffeine có thể đặc biệt có lợi cho những người bị đột biến gen liên quan đến tình trạng này.
Nghiên cứu cho thấy mức caffeine thấp hơn ở những bệnh nhân mắc bệnh Parkinson so với những người đối chứng, nhưng sự khác biệt này lớn hơn nhiều ở những cá nhân mang đột biến ở gen lặp lại giàu leucine kinase 2 (LRRK2).
“Nếu được xác nhận trong các nghiên cứu khác, những kết quả này có thể mở đường cho các thử nghiệm kiểm tra các liệu pháp liên quan đến caffeine để giảm bệnh Parkinson ở những người mang đột biến LRRK2”, tác giả chính Grace Crotty, MD, Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, Boston, nói với Medscape Medical News. .
Nghiên cứu được công bố trực tuyến trên tạp chí Neurology vào ngày 30 tháng 9.
Các đột biến trong gen LRRK2 là yếu tố chính góp phần vào sự phát triển di truyền của bệnh Parkinson. Những đột biến như vậy tương đối hiếm. Tỉ lệ khác nhau giữa các nhóm dân tộc và chủng tộc khác nhau; chúng hiện diện trong ít hơn 1% cá thể Da trắng.
Crotty giải thích: Mặc dù các đột biến trong gen này có liên quan chặt chẽ đến bệnh Parkinson, nhưng chỉ có khoảng 30% người mang mầm bệnh phát triển thành bệnh. Cô và các đồng nghiệp quan tâm đến việc xác định các yếu tố di truyền và môi trường điều chỉnh nguy cơ này, từ đó có thể đưa ra các chiến lược phòng ngừa.
Người ta đã chứng minh rằng lượng caffeine tăng lên có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh Parkinson. “Điều này được công nhận từ các nghiên cứu dịch tễ học và người ta cho rằng caffeine có thể làm giảm nguy cơ phát triển bệnh Parkinson, mặc dù nó chưa được chứng minh là một yếu tố nhân quả xác định, vì có nhiều yếu tố môi trường và chủng tộc khác đang diễn ra”, Crotty nói
.
Nghiên cứu hiện tại đặc biệt tập trung vào những người mang đột biến LRRK2.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành lập hồ sơ chuyển hóa của 368 người đã được đăng ký vào Nhóm thuần tập LRRK2. Trong số này, 188 người mắc bệnh Parkinson và 180 người không mắc bệnh Parkinson. Trong số 368 người, 233 người mang đột biến gen LRRK2 – 118 người bị bệnh Parkinson và 115 người không mắc bệnh Parkinson.
Các nhà nghiên cứu đã đo nồng độ trong huyết tương của 282 mẫu thử ở những người đăng ký với mục đích xác định các dấu hiệu kháng phát triển bệnh Parkinson ở người mang đột biến LRRK2 và đặc trưng cho dấu hiệu chuyển hóa của các đột biến LRRK2 gây bệnh.
Tổng cộng 212 người tham gia cũng đã hoàn thành bảng câu hỏi về lượng caffeine họ tiêu thụ mỗi ngày.
Kết quả cho thấy trong số những người có bản sao bình thường của gen LRRK2, đối với những người bị bệnh Parkinson, nồng độ caffeine trong huyết tương thấp hơn 31% so với những người không mắc bệnh Parkinson.
Trong số những người mang đột biến gen LRRK2, đối với những người bị Parkinson, nồng độ caffeine trong huyết tương thấp hơn 76% so với những người không bị Parkinson.
Những người mang đột biến gen bị Parkinson cũng tiêu thụ ít caffeine hơn trong chế độ ăn uống của họ. Những người mang gen bị Parkinson tiêu thụ ít hơn 41% caffeine mỗi ngày so với những người không bị Parkinson, cả có và không có đột biến gen
Các kết quả tương tự cũng được tìm thấy về nồng độ trong huyết tương của một số phân tích liên quan đến caffeine, bao gồm paraxanthine, theophylline, 1-methylxanthine và trigonelline.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng mức độ caffeine và các chất phân tích liên quan thấp hơn trong dịch não tủy (CSF) của bệnh nhân Parkinson so với những người kiểm soát không bị ảnh hưởng trong số những người mang đột biến LRRK2.
Họ viết: “Phát hiện bất ngờ rằng mối liên hệ giữa caffeine và các chất phân tích liên quan đến khả năng chống lại bệnh Parkinson ở những người mang đột biến LRRK2 lớn hơn đáng kể so với những người không mang gen này.
Họ cho biết thêm: “Mức độ của các chất phân tích này thấp hơn trong huyết tương và dịch não tủy của bệnh nhân PD (Parkinson’s Disease) so với nhóm chứng không bị ảnh hưởng giữa những người mang đột biến LRRK2, trong khi ở những người không mang gen, những chất phân tích này không giảm đáng kể ở bệnh Parkinson so với đối tượng kiểm soát”. “Bằng chứng trực tiếp về sự tương tác giữa bệnh Parkinson và tình trạng LRRK2 (P <0,01) cho mỗi trong số năm chất phân tích liên quan đến caffeine cho thấy có sự tương tác thực sự giữa gen và môi trường.”
Crotty cho biết dữ liệu vẫn chưa đủ mạnh để khuyến nghị tăng tiêu thụ cà phê để giảm nguy cơ mắc bệnh Parkinson cho những người có đột biến LRRK2.
Nghiên cứu hiện tại, được thiết kế cắt ngang, tìm kiếm mối liên quan tại một thời điểm, vì vậy nó không đề cập đến ảnh hưởng của caffeine theo thời gian đối với nguy cơ mắc bệnh Parkinson hoặc cách nó có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh. Nó cũng không chứng minh rằng tiêu thụ caffeine trực tiếp dẫn đến giảm nguy cơ mắc bệnh Parkinson; các nhà nghiên cứu nhấn mạnh nó chỉ cho thấy một mối liên quan.
Crotty nói: “Chúng tôi vẫn chưa biết liệu những người dễ mắc bệnh Parkinson có xu hướng tránh uống cà phê hay một số người mang gen đột biến uống nhiều cà phê và hưởng lợi từ tác dụng bảo vệ thần kinh của nó. “Khi cơ sở dữ liệu về những người mang đột biến LRRK2 mở rộng, chúng tôi có thể tìm ra điều đó.”
Mặc dù những kết quả này chỉ được coi là sơ bộ, nhưng cô ấy nói thêm, “đây là nghiên cứu lớn nhất để xem xét caffeine trong những người mang đột biến LRRK2, và kết quả thật hấp dẫn và thú vị.”
Cô ấy lưu ý rằng caffeine ngăn chặn thụ thể adenosine A2A, xuất hiện rất nhiều trong phần não bị ảnh hưởng bởi Parkinson, và gen LRRK2 cũng liên quan đến khu vực này. Trong các nghiên cứu trên động vật, tụ A2A đã được phát hiện có tác dụng bảo vệ thần kinh tiềm năng, bao gồm giảm viêm và quá trình kích thích độc hại.
Các tác giả kết luận: “Việc xác định các chất phân tích liên quan đến caffein như là dấu hiệu kháng thuốc làm tăng khả năng phát triển của chúng như là liệu pháp điều trị ứng cử do nguy cơ tương đối thấp của việc sử dụng lại các tác nhân dược lý hoặc chế độ ăn uống này – caffein, theophylline và trigonelline – để làm chậm sự tiến triển ở những người có biểu hiện LRRK2 PD, hoặc trong số những người mang đột biến có nguy cơ để giảm sự xâm nhập của bệnh. ”
Các bước tiếp theo có thể bao gồm sao chép các kết quả chuyển hóa này trong một nhóm thuần tập độc lập của những người mang đột biến LRRK2 và đánh giá tính đặc hiệu của chúng trong các dạng di truyền khác của bệnh Parkinson, họ nói thêm.
Nguồn: Medscape
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/939148#vp_1
Bài tự dịch vui lòng không reup.
Tác giả: Roxie Dương