Một nghiên cứu mới cho thấy, một bài kiểm tra ngôn ngữ đơn giản được phát triển bằng trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán, với mức độ chính xác cao, những người có nhận thức bình thường có khả năng mắc bệnh Alzheimer (AD).
Kết quả cho thấy kiểm tra này có tỷ lệ chính xác 70% trong việc dự đoán AD khởi phát nhiều năm trước khi bắt đầu suy giảm nhận thức và chính xác hơn các phương pháp dự đoán truyền thống, chẳng hạn như xét nghiệm tâm lý thần kinh.
Tác giả nghiên cứu Guillermo Cecchi, PhD, Trung tâm Sinh học Tính toán, Nghiên cứu của IBM, Yorktown Heights, New York nói với Medscape Medical News, “Điểm mấu chốt chính là chúng tôi đang tìm thấy những điểm nổi bật nhỏ mà khi bạn đặt chúng lại với nhau sẽ cung cấp một lượng thông tin đáng kể.”
Các nhà nghiên cứu hy vọng kết quả mới cuối cùng sẽ dẫn đến việc sử dụng các thiết bị thăm dò giọng nói đơn giản, tốn ít chi phí để phát hiện chứng mất trí sớm và theo dõi sự tiến triển của nó.
Cecci nói: “Giá trị của [loại thử nghiệm] này là nó có thể được thực hiện nhanh chóng; nó không xâm phạm và có thể thực hiện bất cứ lúc nào.
Nghiên cứu được công bố trực tuyến ngày 22 tháng 10 trên eClinicalMedicine.
Kẻ trộm bánh quy
Ưu tiên quan trọng trong nghiên cứu AD là phát triển các biện pháp can thiệp sớm để giảm nguy cơ, trì hoãn sự khởi phát và / hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh. Điều này đòi hỏi phải xác định những bệnh nhân có khả năng được hưởng lợi từ những can thiệp như vậy, và đây là lúc ngôn ngữ xuất hiện.
Nghiên cứu cho thấy rằng các khía cạnh khác nhau của ngôn ngữ là một thành phần quan trọng của sự suy giảm nhận thức liên quan đến tuổi tác. Ngay cả những khả năng ngôn ngữ bình thường, chẳng hạn như đặt tên đối tượng, cũng tham gia vào mạng lưới não bộ rộng lớn.
Để thực hiện nghiên cứu, các nhà điều tra đã sử dụng dữ liệu từ Nghiên cứu Tim Framingham (FHS), một cuộc điều tra theo chiều dọc đối với hơn 5000 cá thể trong nhiều thập kỷ. Là một phần của FHS, những người tham gia hoàn thành năng lượng kiểm tra tâm lý thần kinh bao gồm nhiệm vụ mô tả hình ảnh đánh cắp bánh quy (CTT) từ Kiểm tra chẩn đoán chứng mất ngôn ngữ Boston.
Trong thử nghiệm này, những người tham gia nghiên cứu được yêu cầu mô tả bằng văn bản bức tranh đánh cắp bánh quy. Bức tranh mô tả ba nhân vật trong một căn bếp – một người phụ nữ ở bồn rửa chén tràn nước; một cậu bé với tay vào một lọ bánh quy trong tủ; và một cô bé mong nhận được một chiếc bánh quy từ cậu bé. Các nhà điều tra đã trích xuất các biến ngôn ngữ từ các câu trả lời cho CTT. Tổng cộng, 87 biến ngôn ngữ đã được tính toán.
Sử dụng các biến này, các nhà nghiên cứu đã phát triển các mô hình máy tính để dự đoán liệu một người tham gia có bị suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) dẫn đến AD hay không.
Một hội đồng đánh giá với ít nhất một nhà thần kinh học và một nhà tâm lý học thần kinh đã xem xét các trường hợp suy giảm nhận thức và sa sút trí tuệ có thể xảy ra. Họ chẩn đoán AD dựa trên các tiêu chí của Viện Quốc gia về Rối loạn Giao tiếp và Thần kinh và Hiệp hội Các rối loạn liên quan đến Đột quỵ-Alzheimer.
Các trường hợp bệnh nhân bao gồm những người phát triển MCI do AD ở tuổi 85 hoặc trước đó.Những người đối chứng phù hợp về tuổi, giới tính và học vấn bao gồm những người vẫn không bị sa sút trí tuệ cho đến ít nhất 85 tuổi.
Từ hơn 3000 phản hồi từ CTT, các nhà nghiên cứu đã tạo ra các mô hình để kiểm tra 80 người tham gia – 40 trường hợp bệnh và 40 người đối chứng.
Các phân tích cho thấy rằng sự khởi đầu của AD trong tương lai có liên quan đến tính lặp lại, lỗi chính tả và phát biểu điện báo, được định nghĩa là lời nói thiếu cấu trúc ngữ pháp trôi chảy và liên tục.
Một biến quan trọng khác, Cecchi cho biết, là “mức độ chi tiết” của “tham chiếu” hoặc thiếu tham chiếu như vậy, ví dụ, đề cập đến người phụ nữ lớn tuổi hơn trong ảnh là “mẹ” hoặc “vợ” thay vì sử dụng thuật ngữ chung chung hơn. , “phụ nữ”.
Sử dụng các biến ngôn ngữ mang lại khả năng dự đoán đáng kể, với diện tích dưới đường cong là 0,74 và độ chính xác là 0,70. Thời gian trung bình để chẩn đoán AD là 7,59 năm.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng mô hình này dựa trên dữ liệu được thu thập khi những người tham gia nghiên cứu bình thường về mặt nhận thức. Nghiên cứu cho thấy rằng những dự đoán khó hơn đối với những người tham gia có bằng đại học so với những người tham gia ít học hơn.
Năng lực ngôn ngữ là một dấu hiệu hành vi của trình độ học vấn và nghề nghiệp, cả hai đều được đề xuất để tăng “dự trữ nhận thức”, các nhà điều tra lưu ý.
Nghiên cứu chỉ ra rằng việc dự đoán chuyển dạng thành AD ở phụ nữ dễ dàng hơn nhiều so với nam giới. Các tác giả lưu ý rằng tần suất AD ở phụ nữ cao hơn đáng kể so với nam giới và tốc độ tiến triển sau khi bắt đầu suy giảm nhận thức nhanh hơn ở phụ nữ.
Hiệu suất tốt hơn với các mô hình dự đoán sử dụng các biến ngôn ngữ so với các mô hình dự báo kết hợp nhiều biến truyền thống hơn liên quan đến nguy cơ mắc AD, chẳng hạn như điểm kiểm tra tâm lý thần kinh, thông tin nhân khẩu học và tình trạng APOE. Cecchi cho biết, đối với các dự đoán bệnh dựa trên sự kết hợp của các biến truyền thống này, độ chính xác là 59%.
Các tác giả lưu ý rằng các xét nghiệm tâm thần kinh và các dấu hiệu sinh học khác, bao gồm đánh giá dịch não tủy và chụp ảnh não, đã được sử dụng để dự đoán sự tiến triển của MCI thành AD. Ngoài ra, đã có những kết quả rất hứa hẹn khi sử dụng chuỗi ánh sáng dây thần kinh để điều trị tiến triển bệnh cho những bệnh nhân ở giai đoạn đầu không có triệu chứng của AD tương tự.
Họ lưu ý: “Tuy nhiên, đây vẫn là những yêu cầu về công nghệ hoặc cung ứng và cần có sự tham gia của các chuyên gia.”
Cecchi và các đồng nghiệp của ông hy vọng nghiên cứu mới này sẽ dẫn đến sự phát triển của một công cụ đơn giản, dễ tiếp cận để đánh giá chính xác nguy cơ mắc AD.
Cecchi hình dung ra một xét nghiệm đơn giản có thể được sử dụng thường xuyên bởi các bác sĩ lâm sàng và các thành viên trong gia đình để theo dõi sự tiến triển bệnh của bệnh nhân, từ đó không cần đến các cuộc hẹn dài tại văn phòng bác sĩ.
Những bệnh nhân qua kiểm tra được xác định là có nguy cơ có thể thay đổi lối sống để giúp trì hoãn sự suy giảm nhận thức. Những điều này có thể bao gồm tuân theo một chế độ ăn uống lành mạnh, tăng cường hoạt động thể chất và hòa nhập xã hội và nhận thức, Cecchi nói.
Ngoài ra, các bác sĩ có thể sử dụng công cụ này để xác định những bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ việc đăng ký tham gia các thử nghiệm lâm sàng về các liệu pháp phòng ngừa tiềm năng, ông nói.
Nghiên cứu thú vị nhưng mới
Bình luận về nghiên cứu cho Medscape Medical News, PhD Heather Snyder, phó chủ tịch quan hệ y tế và khoa học, Hiệp hội bệnh Alzheimer, mô tả nghiên cứu là “thú vị” và “hấp dẫn” nhưng cảnh báo rằng nó vẫn là “công trình mới”.
Snyder cho biết: Nghiên cứu xác định dấu hiệu sinh học ngôn ngữ hoặc giọng nói của sự thay đổi nhận thức “chắc chắn” là một trong những “lĩnh vực mới đang nổi lên”. Hiệp hội Alzheimer đã tài trợ cho các nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Bà nói: “Chúng tôi ngày càng thấy nhiều các nghiên cứu đang xem xét và cố gắng hiểu các mẫu giọng nói và giọng nói cũng như đó có thể là một chỉ báo về những gì có thể xảy ra trong não bộ.
Tuy nhiên, Snyder chỉ ra rằng nghiên cứu hiện tại sử dụng một nhóm cá thể khá nhỏ và “khá xác định”.
Bà cũng lưu ý rằng ngôn ngữ gắn liền với thính giác và các giác quan khác. “Vì vậy, điều này không phải là đơn giản như vậy.”
Bà ấy nhấn mạnh rằng chắc chắn vẫn còn một số công việc phải làm trước khi loại kiểm tra này trở nên hữu ích như một công cụ chẩn đoán.
Nguồn: Medscape
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/939618#vp_1
Bài tự dịch vui lòng không reup.
Tác giả: Roxie Dương