Mặc dù liều tích lũy là rất quan trọng, cách dùng Cisplatin cho bệnh nhân trẻ bị ung thư cũng dường như có tác dụng đáng lưu ý và gây ra tác dụng phụ đối với sự mất thính lực tiến triển do sử dụng Cisplatin (CIHL), theo một nghiên cứu đa trung tâm lớn cho biết.
Bác sĩ Etan Orgel của Bệnh viện Nhi đồng Los Angeles cho biết: “Cisplatin là một tác nhân hóa trị rất hiệu quả nhưng gây mất thính lực vĩnh viễn đang tàn phá những đứa trẻ sống sót sau ung thư. ”
“Nghiên cứu trên cho chúng ta thấy được chúng tôiphải thay đổi như thế nào trong việc sử dụng dược phẩm trong điêu trị bệnh, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của trẻ trong nhiều thập kỷ tiếp theo”, ông nói với Reuters Health qua email.
Trong một bài báo trên tờ The Lancet Child and Adolescent Health, Tiến sĩ Orgel và các đồng nghiệp quan sát thấy rằng hầu hết các báo cáo về tình trạng này bị giới hạn bởi số lượng nhỏ bệnh nhân, nhóm cơ sở nhỏ và sự không nhất quán dẫn đến kết quả mâu thuẫn.
Trong sự nổ lực để giảm thiểu được vấn đều trên, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra dữ liệu trên 1.481 bệnh nhân trẻ tuổi được điều trị bằng Cisplatin tại nhiều trung tâm ung thư trên khắp Canada và Hoa Kỳ. Trong số những bệnh nhân này có 1.275 người dưới 15 tuổi và 206 người còn lại lớn tuổi hơn; 96% đã thực hiện đo âm thanh tại lần theo dõi mới nhất của họ, trung bình 3,9 năm sau khi chẩn đoán.
Nhìn chung, 44% trường hợp bị mất thính lực do sử dụng Cisplatin mức độ vừa phải hoặc nặng, và tỷ lệ cao nhất (59%) được nhìn thấy ở bệnh nhân dưới 5 tuổi. Ngoài ra, hơn một nửa số bệnh nhân có khối u thần kinh trung ương, u nguyên bào gan và u nguyên bào thần kinh mất thính lực vừa phải hoặc nặng, nhưng cũng có trường hợp chưa đến một phần ba bệnh nhân giảm thính lực khi nhận Cisplatin để điều trị khối u tế bào mầm, u xương hoặc các bệnh ung thư khác.
Sau khi tính toán liều Cisplatin tích lũy, nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng liều phân đoạn cao hơn có liên quan đáng kể đến nguy cơ CIHL (suy giảm thính lực tiến triển khi sử dụng Cisplatin). Đối với mỗi lần tăng 10mg/ m2 mỗi ngày, tỷ lệ được điều chỉnh là 1,15. Đối với mỗi lần tăng 50 mg/m2 mỗi chu kỳ, aOR tương ứng là 2,16.
Ngoài ra, điều trị vincristine cũng mới được xác định là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với CIHL (aOR, 3,55).
Nhóm nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ sống không tiến triển hoặc tỷ lệ sống chung giữa những bệnh nhân bị CIHL vừa phải hoặc nặng khi kết thúc điều trị và những người không.
“Các biến thể trong liều lượng cisplatin mang lại nguy cơ phát triển CIHL,” họ kết luận, “và đảm bảo điều tra như một cách tiếp cận tiềm năng để giảm gánh nặng điều trị.”
- et al