NEW YORK (Reuters Health) – Cắt bỏ ống dẫn trứng trong quá trình cắt bỏ tử cung hoặc thay vì thắt ống dẫn trứng, một thủ thuật được gọi là cắt bỏ vòi trứng cơ hội (OS – opportunistic salpingectomy) có liên quan đến việc thấy ít xuất hiện ung thư thanh dịch và biểu mô buồng trứng hơn dự kiến trong một phân tích hồi cứu.
“Chúng tôi khuyến nghị rằng những bác sĩ lâm sàng nên thảo luận về OS với bệnh nhân của họ và nói cho họ về sự an toàn và bằng chứng hiệu quả sơ bộ của phương pháp này” Tiến sĩ Gillian Hanley của Phòng nghiên cứu Bệnh viện Đa khoa Vancouver trao đổi với Reuters Health qua email. “ Chúng tôi hiện vẫn chưa có phương pháp tầm soát hiệu quả cho ung thư buồng trứng”; do đó, phòng ngừa là cách tốt nhất mà chúng ta có và những dữ kiện này cho thấy OS là chiến lược an toàn và hiệu quả”.
“Tất nhiên là bệnh nhân có thể lựa chọn không phải trải qua OS, nhưng chỉ có một số chống chỉ định đó là sự hiện diện của một đột biến di truyền có thể làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng (vì chúng tôi khuyến nghị rằng ống dẫn trứng và buồng trứng nên được cắt bỏ ở những người có nguy cơ cao về mặt di truyền) và người bệnh muốn mang thai trong tương lai,” bà lưu ý. “Chúng tôi cũng không khuyến nghị các bác sĩ phẫu thuật thay đổi phương pháp phẫu thuật của họ để tiếp cận các ống dẫn trứng”. Điều này là phù hợp nhất là ở những bệnh nhân phải trải qua.qua cắt tử cung qua đường âm đạo, con đường mà đôi khi rất khó để tiếp cận cả hai ống dẫn trứng.”
Phân tích của Tiến sĩ Hanley và các đồng nghiệp, được công bố trên JAMA Network Open, bao gồm gần 25.000 người đã trải qua OS (tuổi trung bình 40,2; theo dõi trung bình 3,2 năm) và hơn 32.000 người (kiểm soát) đã trải qua phẫu thuật cắt tử cung đơn thuần hoặc thắt ống dẫn trứng (tuổi trung bình 38,2; theo dõi trung bình 7,3 năm).
Không xuất hiện ung thư thanh dịch buồng trứng và năm hoặc xuất hiện ít hơn ung thư biểu mô buồng trứng trong nhóm OS, trong khi các con số dự kiến được điều chỉnh theo tuổi lần lượt là 5,27 và 8,68.
Ngược lại, số ca ung thư vú dự kiến được điều chỉnh theo độ tuổi so với số ca ung thư vú quan sát được (tương ứng là 22,1 so với 23) và ung thư đại trực tràng (9,35 so với 8) không có sự khác biệt đáng kể.
Các tác giả kết luận “Những phát hiện này cho thấy OS có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.”
Tiến sĩ Hanley cho biết “Vì số lượng người ung thư trong nghiên cứu của chúng tôi là khá nhỏ vào cuối quá trình theo dõi, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi những người này để đảm bảo những phát hiện sơ bộ này được giữ vững qua thời gian theo dõi thêm. Chúng tôi cũng đang bắt đầu mở rộng dự án OS để đề nghị phương pháp này tại thời điểm phẫu thuật đại trực tràng và chúng tôi đang cố gắng tiếp cận các phẫu thuật bụng khác, trong các cuộc phẫu thuật này có thể tiếp cận được ống dẫn trứng để gia tăng cơ hội ngăn ngừa ung thư buồng trứng.”
“Chúng tôi có kế hoạch để nghiên cứu các loại ung thư thanh dịch buồng trứng mức độ cao phát sinh ở những người đã trải qua OS (nếu một số phát sinh trong tương lai) để có một hiểu biết rõ ràng chúng có sự khác biệt như thế nào so với những ung thư được phát sinh từ ống dẫn trứng của những người còn ống dẫn trứng,” bà nói thêm. “Vẫn còn chưa chắc chắn về tỷ lệ ung thư buồng trứng dạng thanh dịch cao phát sinh trong ống dẫn trứng và chúng tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ điều này đồng thời hiểu rõ hơn về sự khác biệt về về phân tử và những khác biệt khác trong loại ung thư này.”
Tiến sĩ Richard Leach, giáo sư và chủ nhiệm khoa phụ sản và sinh sản tại Đại học Bang Michigan ở Đông Lansing, đã bình luận về nghiên cứu này trong một email gửi tới Reuters Health. Ông nói: “Có bằng chứng cho thấy việc cắt bỏ cả hai ống dẫn trứng tại thời điểm cắt bỏ tử cung đối với các tình trạng lành tính cho thấy nguy cơ mắc các loại ung thư buồng trứng phổ biến giảm 42% – 65%”. “Hầu hết các hiệp hội phụ khoa hiện nay khuyến nghị xem xét có nên OS không tại thời điểm cắt tử cung lành tính.”
Ông lưu ý: “Trong các nghiên cứu hồi cứu nhỏ, có sự gia tăng đáng kể về thời gian phẫu thuật, nhưng không phải do các biện pháp khác bao gồm thời gian nằm viện, chuyển viện, truyền máu hoặc các biến chứng sau phẫu thuật,” ông lưu ý. “Các nghiên cứu tiến cứu lớn hơn là cần thiết để đánh giá tốt hơn.”
Link gốc: https://www.medscape.com/viewarticle/968752
NGUỒN: https://bit.ly/33wYeRS JAMA Network Open, trực tuyến ngày 9 tháng 2 năm 2022.
Gillian E. Hanley, PhD1,2; Celeste Leigh Pearce, PhD3; Aline Talhouk, PhD1; Janice S. Kwon, MD1; Sarah J. Finlayson, MD1; Jessica N. McAlpine, MD1; David G. Huntsman, MD1,4; Dianne Miller, MD1
JAMA Netw Open. 2022;5(2):e2147343. doi:10.1001/jamanetworkopen.2021.47343
Người dịch: GT
Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi ykhoa.org – vui lòng không reup khi chưa được cho phép.