Siêu âm định tuổi thai bằng BPD và HC

5/5 - (1 bình chọn)

Siêu âm trong tam cá nguyệt thứ nhất (tính đến hết thời điểm 13 tuần + 6 ngày tuổi thai) là phương pháp tốt nhất để định tuổi thai. Tuổi thai từ 11 tuần cho đến 13 tuần 6 ngày cũng có thể dùng sinh trắc của đầu thai để định tuổi thai.

ISUOG không khuyến cáo dùng BPD (đường kính lưỡng đỉnh) hay HC (vòng đầu) thay cho CRL ở các tuổi thai này. Chỉ chấp nhận định tuổi thai bằng BPD hay HC chỉ được dùng khi không có được bất cứ một thông tin CRL nào thỏa điều kiện để định tuổi thai. Có nghĩa là trước đó thai phụ không có một siêu âm nào có CRL ≥ 10 mm, và hiện tại CRL đã ≥ 84 mm. [7]

1. Giải phẫu và các chỉ số:

BPD (Biparietal Diameter): khoảng cách hai xương đỉnh (parietal bones) qua mặt phẳng ngang chuẩn, thường qua các cấu trúc như thể não bên (thalami) và cái khe ngăn (cavum septum pellucidum) [1].

HC (Head Circumference): chu vi đầu, được đo bằng cách vẽ đường viền quanh hộp sọ ngoài lớp vỏ xương sọ hay sử dụng mode “ellipse/trace” trên máy siêu âm. Nếu không có mode đó, có thể tính HC từ BPD và OFD (Occipitofrontal Diameter) bằng công thức chu vi đường ellipse hoặc đơn giản là HC ≈ (BPD + OFD) × π/2 [6].

6626e139a1354dd5a15fa3a70cd6c0d5

2. Định tuổi thai bằng HC:

HC là chu vi vòng đầu của thai nhi, đo được khi thai 11 tuần.

ISUOG nhận định rằng HC có thể tốt hơn BPD, khi xét đến mục đích là định tuổi thai.

Đường link dưới đây cho phép sử dụng cơ sở dữ liệu của FMF để định tuổi thai, khi 100 mm ≤ HC ≤ 280 mm (13 tuần” đến hết 29 tuần 7).

https://fetalmedicine.org/research/pregnancyDating

2021 06 07 4

3. Định tuổi thai bằng BPD:

BPD là đường kính lưỡng đỉnh của thai nhi, có thể đo được từ tuổi thai 11 tuần.

Website của FMF không tính tuổi thai bằng BPD.

Ở tuổi thai 11 tuần tròn, thai nhi có BPD 17 mm.

Do từ tuần thứ 13 cho đến hết tuần thứ 26, tăng trưởng của BPD là tuyến tính, với tốc độ tăng là khoảng 3 mm/tuần nên có thể dùng công thức sau để tính tuổi thai theo BPD: Tuổi thai (tuần vô kinh) = ½ x (BPD-17) +11

Lưu ý rằng BPD cũng có thể ảnh hưởng bởi tình trạng lệch bội ở thai, nên cần chú ý đến bệnh cảnh lâm sàng. [7]

2021 06 07 2 1

4. Kỹ thuật đo:

1. Thai ở tư thế phù hợp, mặt phẳng ngang trung tâm — thể não bên, các cấu trúc giữa rõ ràng (falx, thalami, cavum septum pellucidum) [1].

2. Dụng cụ: đầu dò siêu âm cong (curvilinear) hoặc phased-array, tần số thích hợp, cài đặt cho chất lượng ảnh tốt nhất, điều chỉnh để giảm nhiễu.

3. Đo BPD từ mép ngoài của xương đỉnh phía gần tới mép trong của xương đỉnh phía xa (“outer-to-inner” hoặc “outer-to-outer” tùy hướng dẫn). BPD được đo bờ ngoài đến bờ trong của lát cắt chuẩn, thấy được hình mũi tên tạo bởi đường giữa và hai đồi thị. Đo OFD nếu cần để tính HC khi không có mode trace [6].

4. Chu vi đầu: dùng trace hoặc ellipse mode quanh xương ngoài, loại bỏ mô mềm nếu không cần.

5. Ghi nhận tuổi thai bằng siêu âm (UA) nên làm sớm càng tốt sau khi xác định được LMP hoặc CRL trong tam cá nguyệt đầu, vì càng muộn sai số càng lớn [1].

5. Các công thức và chuẩn tham chiếu:

Hadlock et al. là bộ công thức dùng rộng rãi nhất, bao gồm các tham số như BPD, HC, AC, FL để tính tuổi thai và cân nặng khoảng trước sinh [3].

Các chuẩn khác như Altman & Chitty (Anh), bảng chuẩn địa phương (ví dụ Aggarwal et al. cho Ấn Độ) cũng được sử dụng để phù hợp đặc điểm dân số [5].

6. Độ chính xác và sai số:

Trong tam cá nguyệt đầu tiên (thường đến khoảng 13 + 6 tuần), đo CRL (crown-rump length) là chính xác nhất; siêu âm sau giai đoạn này (bằng BPD hoặc HC) có sai số lớn hơn [1].

HC đôi khi được cho là ít bị ảnh hưởng bởi hình dạng đầu hơn BPD, đặc biệt trong các trường hợp đầu hình dạng bất thường (ví dụ đầu dài – dolichocephaly, đầu tròn – brachycephaly), hoặc khi thai ở tuổi lớn hơn có khả năng bị biến đổi hình dạng qua sinh thường [6].

Sai số tăng theo tuổi thai (tuổi càng lớn thì tổng sai số biên độ ± ngày càng lớn). Ví dụ, trong giai đoạn 28–40 tuần, các công thức như Hadlock hay công thức NICHD có sai số ± khoảng 17-20 ngày ở 95% CI [4].

Đo lường HC bằng siêu âm thường bị ước tính thấp hơn so với HC sau sinh—một nghiên cứu cho thấy sai khác trung bình khoảng −8-9 mm khi thai hơn 34-37 tuần [2].

7. Khi nào dùng BPD hoặc HC:

Nếu có siêu âm từ tam cá nguyệt đầu, nên dùng CRL để đặt tuổi thai – không thay đổi chỉ vì biometry sau này nếu CRL rõ ràng [1].

Nếu siêu âm đầu thai ở giữa tam cá nguyệt thứ hai, cả BPD và HC đều có giá trị cao; có thể dùng cả hai hoặc ưu tiên HC nếu hình dạng đầu bất thường.

Khi siêu âm muộn (tam cá nguyệt thứ ba) tuổi thai từ BPD hoặc HC có sai số lớn; nên dùng kết hợp nhiều chỉ số (BPD, HC, AC, FL…) để tăng độ chính xác [1].

MEITU 20250915 141303691

8. Siêu âm trong tam cá nguyệt II và III:

Không còn chính xác để định tuổi thai

Ở tam cá nguyệt II và III có thể sử dụng các chỉ số sinh trắc có được qua siêu âm như đường kính lưỡng đỉnh, chu vi đầu, chu vi bụng (adomen circumference AC) và chiều dài xương đùi (femur length – FL) để tính tuổi thai.

Sẽ khó khăn trong các trường hợp như khi đầu thai đã xuống thấp ở giai đoạn cuối thai kỳ, mẹ béo phì, đa thai.

Khi thai đã lớn, đo HC phối hợp với BPD sẽ cho kết quả ít sai lệch hơn so với việc chỉ dựa vào BPD.

Nếu cần phải tính tuổi thai ở tam cá nguyệt II hoặc III, nên phối hợp nhiều chỉ số đế tăng độ chính xác vì mỗi chỉ số đều có thể sai lệch trong những trường hợp nhất định.

BPD có thể không chính xác khi hộp sọ thai có hình dạng đặc biệt như hộp sọ dài hay brachycephaly, AC dễ sai số vì bụng không có xương bao quanh, không đối xứng mà sẽ thay đôi theo cử động thai, FL lại thay đổi nhiều theo chủng tộc hoặc trong các bất thường như lệch bội hay bất sản xương.

Tương tự với BPD và HC, việc khảo sát vòng bụng sẽ cho kết quả ít sai lệch hơn so với việc chỉ dựa vào đường kính ngang bụng.

Quan trọng nhất là đến nay vẫn chưa tìm ra được phương trình hồi quy tối ưu nhất để phối hợp nhiều chỉ số trong việc tính tuổi thai, thêm vào đó những khác biệt về sinh học bình thường cũng ảnh hưởng đến các chỉ số sinh trắc trong tam cá nguyệt II và III vì vậy ở nửa sau của thai kỳ việc định tuổi thai bằng siêu âm không còn chính xác như trong tam cá nguyệt I.

Nếu dùng siêu âm ở tam cá nguyệt II, tuổi thai tính được có thể sai lệch 7-12 ngày và ở tam cá nguyệt III sai lệch lên đến 18-35 ngày.

Khi thai càng lớn việc định tuổi thai càng không chính xác. [7]

989077da7ef74fe48b5872731c08409a

9. Khuyến nghị lâm sàng:

Đào tạo người làm siêu âm để đảm bảo mặt cắt chuẩn, đặt caliper đúng, chất lượng ảnh tốt.

Sử dụng chuẩn dân số địa phương nếu có; nếu không, sử dụng những chuẩn quốc tế được kiểm định với dân số tương đồng [5].

Ghi rõ ngày kinh cuối (LMP) và xác minh sớm nếu siêu âm đầu thai cho thấy sai khác lớn [1].

Không thay đổi tuổi thai sau khi đã được xác định bằng siêu âm đầu nếu biometry sau đó sai lệch trong giới hạn bình thường, trừ khi có bằng chứng rõ ràng về sai lệch (ví dụ IUGR, đầu bất thường).

Kết hợp nhiều chỉ số siêu âm trong tam cá nguyệt sau: BPD, HC, AC, FL để giảm sai số cá nhân [1].

Thường xuyên sử dụng các công thức cập nhật như công thức NICHD so sánh với Hadlock để chọn cái phù hợp nhất với tuổi thai của nhóm dân số đang theo dõi [4].

Screenshot 20250916 075922 ReadEra

Tài liệu tham khảo:

1. Naidu, K. (2023). Gestational Age Assessment. In StatPearls. NCBI Bookshelf. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK526000/

2. Poojari, V. G., et al. (2021). Sonographic Estimation of the Fetal Head Circumference (HC): comparison with postnatal HC and factors influencing the error. Journal of Ultrasound in Medicine, 40(9), 1789–1797. https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC9343492/

3. The Fetal Medicine Foundation. (n.d.). Fetal Growth Assessment. https://fetalmedicine.org/research/assess/growth

4. Skupski, D. W., et al. (2017). NICHD Gestational Age Estimation: New formula compared to Hadlock. Obstetrics & Gynecology, 130(2), 435-444. https://www.acog.org/education-and-events/creog/curriculum-resources/-/media/0fb3d64d83c34fcea19e15d43b0f6e45.ashx

5. Aggarwal, N., et al. (2020). Fetal ultrasound parameters: Reference values for a local population. Indian Journal of Radiology and Imaging, 30(3), 241-248. https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC7546290/

6. Australasian Society for Ultrasound in Medicine (ASUM). (n.d.). Normal Ultrasonic Fetal Measurements Standard. https://www.asum.com.au/files/public/SoP/curver/Obs-Gynae/Normal-Ultrasonic-Fetal-Measurements-Standard.pdf

7. Âu Nhựt Luân, Đỗ Thị Ngọc Mỹ, Tô Mai Xuân Hồng, Nguyễn Thị Hương Xuân, Nguyễn Thị Kim Mai. (2023). TBL Sản Khoa

Advertisement

Giới thiệu BS Thảo Hiền

Xem các bài tương tự

42ade391 74a1 47da 880c 7d74e795e344

BỆNH PEMPHIGUS – KẺ THÙ THẦM LẶNG CỦA LÀN DA

Tác giả: Phạm Văn Hòa Pemphigus là gì? Pemphigus là một nhóm các bệnh tự …