Tác giả: BSNT Hà Văn Quốc
Mọi người muốn thảo luận thì vào group: https://www.facebook.com/groups/diendanbacsitrevietnam/
Muốn xem lại các bài viết dễ hơn thì vào website: https://vypo.ykhoa.org
Giới thiệu
Tiếp nối phần vàng da, việc đánh giá các xét nghiệm liên quan đến gan là điều hết sức cần thiết. Có thể tạm chia bộ bilan đánh giá một cơ quan thành 2 nhóm là nhóm đánh giá cấu trúc và nhóm đánh giá chức năng. Về một phương diện nào đó, khi cấu trúc bị tổn thương, thì ắt cũng ảnh hưởng chức năng. Tuy nhiên, các cơ quan chúng ta được thiết kế để cho phần còn lại chưa tổn thương có thể gồng gánh được chức năng của toàn cơ quan, vẫn còn được đảm bảo đủ xài cho đến khi tổn thương gần hết. Và từ đây, “nơi nỗi đau bắt đầu” vì toàn bộ cấu trúc của nó đã te tua. Bộ xét nghiệm chức năng gan thật sự mình sẽ trình bày lần lượt trong những bài tiếp theo. Bài mở đầu này tập trung vào những điểm cơ bản về 2 chỉ số vô cùng thường gặp, phản ánh tổn thương gan. Việc phát hiện tổn thương gan sớm trước khi ảnh hưởng đến chức năng giúp ta can thiệp sớm để bảo tồn phần còn lại.
AST- ALT
Hai enzyme thường gặp nhất đó là AST và ALT, là những aminotransferase, hay trước đây còn được gọi bằng tên transaminase (cái tên chúng ta vẫn thường gọi). Transaminase là enzyme chuyển đổi gốc amino (NH2) và gốc keto (0=) giữa những amino acid và α-keto acid, giúp cho keto acid thành acid amin và ngược lại, acid amin trở thành keto acid đảm bảo cho nhu cầu chuyển hóa. (trong bài này, từ đây về sau tạm gọi là men, dù không thật sự đúng)
Như vậy, ở cơ quan nào cần hoạt động chuyển hóa liên quan đến “đạm” nhiều: thận, cơ, tim, hồng cầu, gan, hoạt động của men này sẽ mạnh mẽ, và khi có tổn thương sẽ làm AST, ALT tăng. Sự tăng của AST và ALT có thể là sự hủy hoại tế bào làm thoát men ra hay sự rò rỉ men từ tế bào ra máu.
Nồng độ ALT trong bào tương của tế bào gan cao gấp trong huyết tương lên đến 3000 lần, do đó khi tổn thương gan, làm phóng thích ALT ra nhiều hơn. Dù ALT cũng hiện diện trong các cơ quan khác, như cơ hoặc ruột, nhưng nồng độ của nó trong tế bào thấp hơn nhiều so với gan, do đó, ALT khá đặc hiệu cho tổn thương gan. Lý giải cho vai trò của ALT được thể hiện trong hình trên, alanine từ cơ về gan được dùng để tái tạo lại glucose, đồng thời chu trình này giúp đưa sản phẩm nito về gan để tạo ure đào thải ra ngoài.
AST có nguồn gốc từ ty thể và từ bào tương. Enzyme này có những đồng phân khác nhau nếu có nguồn gốc khác nhau, và một số phòng lab có thể phân biệt được điều này. AST trong huyết tương chủ yếu từ tế bào chất, trong khi AST tại gan chủ yếu là từ ty thể. Nhắc một điểm trong chuyển hóa tế bào, khi NADH được tạo ra trong bào tương, nó cần được đưa vào ty thể để tham gia trong quá trình đường phân hiếu khí. AST đóng vai trò xúc tác cho quá trình này. Vì đây là quá trình sống còn, nên nó thực sự quan trọng đối với mọi tế bào có tốc độ chuyển hóa cao. Do đó, nó khá là kém đặc hiệu cho bất cứ một cơ quan nào.
Trong bệnh gan do rượu, AST:ALT (tỷ số De Ritis) thường > 2, và đặc hiệu cho rượu khi > 3, do rượu làm giảm men pyridoxal phosphat (B6), là một co-enzyme của ALT, làm cho ALT không tăng tương xứng. Thứ nữa, rượu gây tổn thương ty thể, mà đồng phân AST từ ty thể có thời gian bán hủy dài hơn hẳn so với AST từ tế bào chất, góp phần làm cho AST đo được cao hơn nhiều so với ALT, tuy nhiên cũng hiếm khi AST > 300. Do đó, ta thấy bệnh nhân nhịn rượu một thời gian, tỷ số này sẽ giảm dần. Uống rượu –> S ay (AST)”.
Giá trị của aminotransferase tương quan kém với mức độ tổn thương của gan, nhưng không cho biết tiên lượng vì khả năng phục hồi của gan rất mạnh mẽ trong hầu hết các trường hợp. Sự giảm nhanh của men này, cùng sự tăng lên của bilirubin và kéo dài PT là một dấu hiệu tiên lượng nặng. Tức là khi đó, sự tổn thương tế bào gan đã nặng đến độ làm giảm chức năng của nó.
Aminotransferase trong viêm gan virus:
Từ y3, chúng ta đều thuộc rằng viêm gan virus thì ALT > AST, dẫn đến tỉ De Ritis (DR) <1. Nhưng nếu vào giai đoạn bùng phát, có thể tỷ số này >2, phản ánh sự hủy hoại tế bào gan đáng kể (nhìn vào hình 3 ở trên, ta thấy AST trong tế bào gan nhiều gấp hơn 2 lần ALT). Do đó, những bệnh nhân này thường có tiên lượng tử vong so với phần còn lại. Trong viêm gan virus mạn, DR thường < 1, và khi tiến trình dẫn tới xơ gan, DR > 1.
Một mình AST-ALT không đủ để phân biệt rạch ròi mọi thứ, kết hợp thêm những yếu tố khác (sẽ có ở các bài sau), giúp cho bệnh cảnh rõ ràng hơn. Hình cuối tóm tắt một số ý mà có lẽ quan trọng và đủ dùng cho các bạn trẻ.
Xin nhận sự chia sẻ và trao đổi của các bạn.
Thân ái.
https://www.facebook.com/ykhoa.org/posts/2555648101389548