1, Giá trị tỉ lệ lọc cầu thận (GFR) là gì?
Tỉ lệ lọc cầu thận (GFR) được đo bởi độ thanh lọc của chất đánh dấu (marker) cầu thận. Một chất đánh dấu cầu thận là chất được lọc tự do qua mao mạch cầu thận và nó không được tái hấp thu hay tiết bởi ống thận. Chất đánh dấu cầu thận lý tưởng là inulin. Thật vậy, độ thanh lọc của inulin là GFR.
Công thức tổng quát cho độ thanh lọc của bất kỳ chất nào, X là:
GRT hay độ thanh lọc của insulin được mô tả như sau:
2, Giá trị “đúng” cho dòng huyết tương ở thận là? Giá trị “đúng” dòng máu ở thận là? Giá trị “hiệu quả” dòng huyết tương ở thận? Tại sao dòng huyết tương thận hiệu quả khác biệt so với dòng huyết tương thận “đúng”?
Dòng huyết tương thận được do bởi một acid hữu cơ gọi là para-aminohippuric acid (PAH). Đặc tính của PAH rất khác so với inulin. PAH được lọc qua mao mạch cầu thận và được tiết bởi ống thận, nơi inulin chỉ được lọc. Công thức cho giá trị dòng huyết tương thận “đúng” đo được với PAH được dựa trên định luật Fick (bảo toàn khối lượng). Định luật Fick: lượng PAH vào thận qua đọng mạch thận cân bằng với lượng PAH rời khỏi thận qua tĩnh mạch thận và niệu quản. Do đó công thức cho dòng huyết tương thận “đúng” là:
Dòng máu thận được tính từ dòng huyết tương thận đo được và hematocrit, như sau:
Bằng từ ngữ, RBF là RPF chia cho 1 trừ cho hematorit. Hematocrit là tỉ lệ thể tích máu bị chiếm bởi tế bào hồng cầu. Thật vậy, 1 – hematocrit là tỉ lệ thể tích máu bị chiếm bởi huyết tương. Trong trường hợp này, RBF là:
Quan sát công thức cho dòng huyết tương thận “đúng”, bạn có thể đánh giá rằng phép đo đó sẽ khó được thực hiện ở người – dòng máu từ động mạch thận và tĩnh mạch thận sẽ phải lấy mẫu gián tiếp. Phép đo có thể được đơn giản hóa, bằng cách áp dụng hai giả định hợp lý: (1) Nồng độ của PAH ở tĩnh mạch thận = 0 hoặc gần bằng 0, bởi vì tất cả PAH vào trong thận được bài tiết vào trong nước tiểu. (2) Nồng độ PAH ở động mạch thận cân bằng với nồng độ PAH ở tĩnh mạch hệ thống bất kỳ (tĩnh mạch khác hơn tĩnh mạch thận). Nhận định thứ hai dựa trên thực tế là không có cơ quan nào khác ngoài thận chiết xuất PAH. Với hai nhận định (PAH tĩnh mạch thận bằng 0 và PAH động mạch thận giống với PAH huyết tương tĩnh mạch hệ thống), chúng ta có hai công thức đơn giản hơn, gọi là dòng huyết tương thận “hiệu quả”. Chú ý rằng dòng huyết tương thận hiệu quả còn là độ thanh lọc của PAH:
Effective RPF (542 mL/phút) thấp hơn giá trị True RPF (591 mL/phút). Thật vậy, effective RPF đánh giá thấp hơn true RPF khoảng 10%. Sự đánh giá thấp xuất hiện bởi vì nồng độ PAH tĩnh mạch thận không chính xác bằng 0, nó chỉ gần bằng 0 thôi. Khoảng 10% RPF cung cấp cho mô thận không liên quan với sự lọc và sự tiết PAH (mô mỡ của thận). PAH một phần của RPF xuất hiện ở máu tĩnh mạch thận, không ở nước tiểu.
Bạn tự hỏi: “Khi nào nên tính true RPF và khi nào nên tính effective RPF?”. Nếu được cho giá trị PAH động mạch thận và tĩnh mạch thận, bạn sẽ tính true RPF. Nếu chỉ được cho nồng độ PAH huyết tương tĩnh mạch hệ thống => bạn tính effective RPF.
3, Giá trị cho tỉ lệ lọc là gì và ý nghĩa của giá trị đó?
Tỉ lệ lọc là tỉ lệ dòng huyết tương thận được lọc qua mao mạch cầu thận. Hay nói cách khác, tỉ lệ lọc là GFR chia cho RPF:
Giá trị cho tỉ lệ lọc (0.2 hay 20%) là đặc trưng của thận bình thường. Nó có nghĩa là khoảng 20% dòng huyết tương thận vào thận qua động mạch thận được lọc qua mao mạch cầu thận. Còn lại 80% dòng huyết tương thận rời khỏi mao mạch cầu thận qua tiểu động mạch đi và trở thành dòng máu trong mao mạch quanh ống.
4, Nhận định rằng vật chất A được lọc tự do (không liên kết với protein huyết tương), load filtered của chất A là gì? Chất A được tái hấp thu hay được tiết? Tỉ lệ tái hấp thu hay tiết đó là gì?
Một loại dịch kẽ được lọc từ máu mao mạch cầu thận vào trong khoang Bowman (phần đầu tiên của ống lượn gần). Lượng chất được lọc theo đơn vị thời gian gọi là filtered load. Độ lọc cầu thận là trình tự được điều chỉnh bởi quá trình tái hấp thu và quá trình tiết trong tế bào nội mô lót trong lòng ống thận. Với sự tái hấp thu (reabsorption), vật chất được di chuyển từ lòng ống vào trong máu mao mạch quanh ống. Nhiều vật chất được tái hấp thu bao gồm Na+, Cl-, HCO3-, amino acids và nước. Với sự tiết, vật chất đượ cdi chuyển từ máu mao mạch quanh ống vào trong lòng của ống thận. Một vài vật chất nó được tiết bao gồm K+, H+, các acid hữu cơ và base khác.Tỉ lệ bài tiết là lượng vật chất được bài tiết trên một đơn vị thời gian; nó là tổng hay kết quả của ba quá trình lọc, hấp thu và tiết.
Chúng ta có thể xác định liệu mạng lưới tái hấp thu hay mạng lưới tiết của vật chất có xuất hiện bởi so sánh tỉ lệ tiết với filtered load của nó. Nếu tỉ lệ bài tiết thấp hơn filterd load, vật chất được tái hấp thu. Nếu tỉ lệ tiết lớn hơn filterd load, vật chất được bài tiết. Thật vậy, nó thì cần thiết để biết bằng cách nào tính được load filtered và tỉ lệ bài tiết. Với thông tin đó, chúng ta có thể tính được tỉ lệ tái hấp thu và tỉ lệ tiết.
Filtered load của bất kỳ chất X nào, là sản phẩm của GFR và nồng độ X trong huyết tương, như sau:
Tỉ lệ tiết của bất kỳ chất X nào là sản phẩm của tỉ lệ dòng nước tiểu và nồng độ nước tiểu của X:
Bây giờ chúng ta sẵn sàng để tính giá trị filtered load và tỉ lệ bài tiết của chất A, để xác định chất A là tái hấp thu hay được tiết. GFR được tính toán trước đó từ độ thanh lọc của inulin là 120 mL/phút.
Filtered load của chất A là 1200 mg/phút, và tỉ lệ bài tiết của chất A là 2000 mg/phút. Bằng cách nào chất A được bài tiết trong nước tiểu nhiều hơn chất được lọc ban đầu? Chất A phải được tiết từ máu mao mạch quanh ống vào trong dịch ống (nước tiểu). Chúng ta có thể xác định rằng tỉ lệ tiết của chất A là 800 mg/phút (sự khác biệt chênh lệch của tỉ lệ bài tiết và filtered load).
5, Phân suất bài tiết chất A là gì?
Phân suất bài tiết của một chất là phần trăm của filtered load được bài tiết vào trong nước tiểu.
Do đó, phân suất bài tiết là tỉ lệ bài tiết (Ux.V) chia cho filtered load (GFR.Px) như sau:
6, Độ thanh lọc chất A là gì? Giá trị độ thanh lọc thích hợp với kết luận của bạn ở câu 4 về chất A được tái hâp thu hay được tiết không?
Định nghĩa về độ thanh lọc và công thức độ thanh lọc được bàn luận trong câu 1. Độ thanh lọc của chất A được tính với công thức độ thanh lọc:
Câu hỏi là liệu giá trị vừa được tính về độ thanh lọc có giống với kết luận ở câu 4, câu 5 (đây là chất được tiết bởi ống thận). Để trả lời câu hỏi đó, so sánh độ thanh lọc của chất A với độ thanh lọc của inulin. Inulin là một chất đánh dấu nguyên chất được lọc, nhưng nó không được tái hấp thu hay được tiết. Độ thanh lọc của chất A cao hơn độ thanh lọc insulin bởi vì chất A được lọc và được tiết, nơi inulin chỉ được lọc. Thật vậy, so sánh với độ thanh lọc của chất A với độ thanh lọc của inulin cho câu trả lời giống với sự tính toán của câu 4,5 => Chất A được tiết.
7, Chất B 30% liên kết với protein huyết tương. Chất B được tái hấp thu hay được tiết? Tỉ lệ tái hấp thu hay tiết là ?
Sự tiếp cận với câu hỏi đó giống với câu hỏi 4, ngoại trừ chất B 30% liên kết với protein huyết tương. Bởi vì protein huyết ương không lọc được, 30% chất B trong huyết tương không thể lọc qua mao mạch cầu thận, chỉ 70% chất B trong huyết tương có khả năng lọc.
Bởi vì tỉ lệ bài tiết của chất B (10 mg/phút) thấp hơn filtered load (840 mg/phút), chất B phải được tái hấp thu. Tỉ lệ tái hấp thu được tính toán theo trực quan từ sự chênh lệch giữa filtered load và tỉ lệ bài tiết, là 830 mg/phút.
Case được dịch từ sách: Physiology cases and problems
Tham khảo bản dịch của: NGUYỄN THỊ HUỲNH NHƯ – Khoa Y ĐHQG TP.HCM