💧Anti-Mullerian hormone (AMH) là một loại glycoprotein, có nguồn gốc từ tế bào hạt, phản ánh tổng khối tế bào hạt hiện hữu. AMH độc lập với noãn nang đang phát triển.
👫AMH được sản xuất bởi cơ quan sinh dục rồi đưa vào tuần hoàn. AMH có thể định lượng được ở cả nam và nữ. Nồng độ AMH ở nữ thấp hơn nam trong suốt cuộc đời.
🧒Trong bào thai bé trai, AMH được tiết ra bởi tế bào Sertoli của tinh hoàn thai nhi. AMH trong cơ thể bé trai có tác dụng gây thoái triển hệ thống ống Muller, tạo điều kiện cho cơ quan sinh dục nam hình thành.
👧Ở bé gái, trong giai đoạn phôi thai sớm, không có sự hiện diện của AMH, do đó, hệ thống ống Muller tiếp tục phát triển thành tử cung, vòi trứng và phần trên âm đạo. Từ thai 36 tuần trở đi, trong cơ thể bé gái có sự hiện diện của AMH được sản xuất từ các tế bào hạt của các nang noãn sơ cấp, tiền hốc và có hốc nhỏ ở buồng trứng.
🧏♀️AMH không có trong các nang noãn phát triển rồi thoái hóa và các nang noãn lớn (>7mm) ở người phụ nữ trưởng thành. AMH phản ánh tổng khối tế bào hạt của các cấu trúc noãn nang sơ cấp và thứ cấp sớm hiện hữu, và tương đối độc lập với các noãn nang đang phát triển.
👶AMH thấp gần như không thể định lượng được lúc mới sinh. AMH tăng dần trong 2-4 năm đầu sau sinh. Sau đó, AMH ổn định trong suốt tuổi sinh sản, rồi giảm dần và không thể phát hiện được ở thời kỳ mãn kinh. AMH chỉ có nguồn gốc từ buồng trứng vì khi cắt buồng trứng 2 bên, AMH không còn phát hiện được sau 3-5 ngày.
🤰AMH được ghi nhận không thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt, khi người phụ nữ đang mang thai, đang điều trị với GnRH đồng vận, hay dùng thuốc ngừa thai ngắn hạn, vì vậy, bệnh nhân có thể thực hiện xét nghiệm ở bất kỳ thời điểm nào.
🗣Nồng độ AMH cũng được ghi nhận thay đổi tùy theo chủng tộc, tình trạng hút thuốc, uống rượu và mức độ béo phì của bệnh nhân.
🌱Vai trò sinh lý chính của AMH trong buồng trứng là ức chế sự phát triển của các nang noãn giai đoạn sớm. AMH được sản xuất ở buồng trứng và đưa vào tuần hoàn, do đó, AMH có thể đo được trong huyết thanh. Nồng độ AMΗ trong máu được ghi nhận tùy thuộc vào số lượng và hoạt động của các nang noãn nhỏ, giảm trong suốt cuộc đời người phụ nữ và không còn ở tuổi mãn kinh.
📈Do đó, AMH là một chất đánh dấu “động” rất tiềm năng thể hiện tình hình phát triển nang noãn của buồng trứng, hay nói cách khác là chức năng sinh sản của buồng trứng. Các nghiên cứu cơ bản cho thấy xét nghiệm AMH nhiều lần theo thời gian có thể giúp đánh giá dự trữ còn lại của buồng trứng (số noãn còn ở buồng trứng) và diễn tiến của hiện tượng lão hóa của buồng trứng. Từ đó, xét nghiệm này có thể dùng để chẩn đoán khả năng sinh sản và tiên lượng thời gian cần can thiệp điều trị để có con.
🧏♀️Ngoài ra, nồng độ AMH trong máu cao gấp 2-3 lần ở những bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang so với những phụ nữ bình thường. Ở bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang, AMH tăng do buồng trứng có nhiều nang có hốc và cũng do tế bào hạt tăng chế tiết AMH. Nghiên cứu ghi nhận nồng độ AMH trong tế bào hạt của buồng trứng đa nang cao hơn gấp 75 lần nồng độ trong tế bào hạt của buồng trứng bình thường. Định lượng AMH được ghi nhận có độ nhạy và độ đặc hiệu cao (67% và 92%, theo thứ tự) trong chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang. Do đó, một số tác giả đề nghị trong tình huống siêu âm không thể chẩn đoán chính xác, AMH có thể được sử dụng như là một tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang.
Tài liệu tham khảo:
1.Vương Thị Ngọc Lan, Hồ Mạnh Tường, Anti-mullerian hormone (AMH) và các ứng dụng trong sức khỏe sinh sản, Sinh lý nội tiết sinh sản, Nội tiết sinh sản.
2.Đỗ Thị Ngọc Mỹ, Âu Nhựt Luân, Thay đổi về hoạt động của buồng trứng qua các giai đoạn của cuộc đời người phụ nữ. Thời kỳ dậy thì, quanh mãn kinh và hậu mãn kinh, Dẫn nhập về Y học Sinh sản, TBL Phụ Khoa.