Theo như các nhà nghiên cứu, dấu hiệu mất liên lạc giữa các bán cấu não có mối liên hệ với hội chứng tự kỷ (ASD) ở thanh thiểu niên và người trưởng thành.
Theo Clara Weber, nghiên cứu sinh sau đại học ở đại học Yale, Newhaven,Connecticut, tình trạng gián đoạn trong chất trắng của thể chai tăng dần theo tuổi. Đây là một phát hiện có thể cải thiện chẩn đoán và hiểu sâu hơn nguyên nhân của bệnh.
Cô cũng trả lời tờ Medscape Medical News rằng: “ Chúng tôi nhận thấy bệnh tự kỷ đã có những thay đổi tiến bộ cả trong ngôn ngữ và hành vi”. Cô đã có buổi trình bày về phân tích MRI tại hội nghị thường niên Radiological Society of North America (RSNA) 2021.
Nhũng nghiên cứu trước đây đã tìm ra được sự khác nhau trong cấu trúc vi thể của chất trắng giữa trẻ em mắc và không mắc ASD. Nhưng mẫu quá nhỏ nên rất khó để thu được những kết quả thống kê quan trọng.
Để giải quyết thách thức này, Weber và cộng sự đã phân tích dữ liệu trên 583 bệnh nhân từ 4 nhóm dựa trên kho dữ liệu quốc gia về tự kỉ từ những nghiên cứu trước đó. 4 nhóm gồm:
- 34 trẻ sơ sinh tự kỉ và 121 trẻ đang điều trị, trong đó 65,8% là nam, trung bình tuổi là 7 tháng tuổi.
- 57 trẻ mới biết đi tự kỷ, 45 trẻ đang điều trị, trong đó 73,5% là nam, trung bình tuổi là 32 tháng tuổi.
- 106 thiếu niên tự kỷ, 124 người đang điều trị, trong đó 50,8% là nam, trung bình tuổi là 158 tháng tuổi.
- 67 người trưởng thành tự kỉ, 29 người đang điều trị, trong đó 99% là nam, trung bình tuổi là 230 tháng tuổi.
Họ chụp não bằng chụp cộng hưởng từ khuếch tán sức căng, đây là 1 kỹ thuật MRI cho phép đo lường tính liên kết trong não bằng cách xem xét dịch di chuyển giữa các vùng chất trắng như thế nào.
Và họ dùng máy móc để tìm kiếm sự tương quan giữa phân số dị hướng, độ khuếch tán, độ khuếch toán tỏa tròn theo bán kính, tuổi và giới tính. Phân số dị hướng đo lường phạm vi mà sự khuếch tán dịch bị giới hạn theo một phía. Nếu giá trị này bằng 0 thì có nghĩa sự khuếch tán không bị giới hạn. Giá trị bằng 1 nghĩa là chỉ xảy ra khuếch tán theo một phía, đây là dấu hiệu tốt.
Khuếch tán trung bình liên quan tới tính di động của phân tử trong dịch, phản ánh mật độ dày đặc của các tế bào. Độ khuếch tán tỏa tròn theo bán kính là phạm vi dịch khuếch tán vuông góc với dải chất trắng.
Weber nói rằng: “Khi các tế bào trở nên lỏng lẻo, thì dịch sẽ khuếch tán theo nhiều hướng, do đó độ khuếch tán sẽ cao”.
Các nhà nghiên cứu tìm ra những kết quả thống kê quan trọng làm giảm phân số dị hướng trong phạm vi đằng trước/ hoặc giữa thể chai ở thiếu niên và người trưởng thành tự kỷ, so sánh với những người đã kiểm soát được bệnh. Đồng thời cũng có sự tương quan giữa chẩn đoán tự kỉ và giá trị của độ khuếch tán và độ khuếch tỏa tròn ở người trưởng thành.
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự thay đổi trong phân số dị hướng có liên quan tới tuổi. Phân số dị hướng thấp hơn ở nữ, ngay cả khi đã điều trị sau chẩn đoán xác định.
Họ dùng máy tính để xem xét những sự tương quan này và nhận thấy rằng mẫu đúng khoảng 75% (vùng dưới đường cong, 0.75) trong việc xác định bệnh nhân có mắc tự kỷ không dựa trên giới tính, tuổi, và đặc điểm cấu trúc.
Weber cho rằng: “Sẽ là sai lầm nếu bác sĩ chỉ dựa vào MRI để chẩn đoán bệnh nhân có mắc tự kỷ không. Cần phải nói chuyện, đánh giá, biết được khả năng và hành vi của bệnh nhân trước khi chẩn đoán xác định. Nên về cơ bản, chúng ta có thể sử dụng thứ này để hỗ trợ chẩn đoán và kể cả hỗ trợ điều trị”.
Theo tiến sĩ Dennis Dimond, người đã nghiên cứu về chất trắng ở người tự kỷ tại đại học Calgary ở Alberta, Canada nhưng không tham gia nghiên cứu này, đã trả lời tờ Medscape Medical News: “Phát hiện ra sự khác biệt thể chai giữa người mắc và không mắc tự kỷ đã không còn mới. Nhưng tôi nghĩ rằng thử nghiệm trên một mẫu lớn thế này đã củng cố tính đúng đắn của phát hiện đó, đi ngược lại với những giả thuyết về sán hay bất cứ thứ gì khác”.
Theo ông sự phát hiện về sự khác biệt trong hình thái não không xuất hiện ở trẻ sơ sinh mà chỉ có ở người lớn cũng rất quan trọng: “ Điều này củng cố thêm rằng đây là một rối loạn về phát triển thần kinh, xảy ra trong quá trình phát triển của não bộ mà góp phần cấu thành tính cách trong bệnh tự kỷ”.
Cũng theo ông thì những thử nghiệm như thế này là rất cần thiết vì các nhà khoa học vẫn còn một chặng đường dài để hiểu thấu cơ chế còn ẩn giấu của tình trạng này.
Người dịch: Diệu Hương
Link bài gốc: https://www.medscape.com/viewarticle/964070?src=
Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi ykhoa.org – vui lòng không reup khi chưa được cho phép!