Nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng các chất ức chế chế kênh đồng vận SGLT2 dường như không làm tăng nguy cơ gãy xương ở người lớn tuổi.
Dữ liệu đến từ một nghiên cứu Phương pháp ghép cặp điểm khuynh hướng (propensity score-matched) trên toàn quốc, đối tượng nghiên cứu là người dân tham gia chương trình bảo hiểm y tế quốc gia ở Hoa Kỳ mắc bệnh đái tháo đường típ 2, những người mới sử dụng ức chế SGLT2, ức chế dipeptidyl peptidase 4 (DPP-4) hoặc đồng vận GLP-1 (GLP-1) .
“Việc sử dụng ức chế SGLT2 không liên quan đến việc tăng nguy cơ gãy xương không do chấn thương so với ức chế DPP-4 hoặc đồng vận GLP-1 . Kết quả là nhất quán giữa các nhóm trên phương diện giới tính, tuổi tác và việc sử dụng insulin,” bác sĩ Min Zhuo, thuộc Trường Y Harvard, Boston, Massachusetts và các đồng nghiệp đã công bố của nghiên cứu của họ ngày 27 tháng 10 trên tạp chí JAMA Network Open.
Họ viết “Kết quả của chúng tôi bổ sung vào cơ sở bằng chứng đánh giá mức độ an toàn của thuốc ức chế SGLT2 ở người lớn tuổi ngoài các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và bổ sung thêm đặc điểm khác cho sự cân bằng giữa lợi ích – nguy cơ của thuốc ức chế SGLT2 trong thực hành lâm sàng”.
Khi được yêu cầu bàn luận, Tiến sĩ Y khoa Simeon I. Taylor nói với Medscape Medical News , “Đây là một nghiên cứu chất lượng cao, thời gian đảm bảo tương đối ngắn, dưới 1 năm, điều trị bằng thuốc ức chế SGLT2 dường như không tăng đáng kể nguy cơ gãy xương. ”
Tuy nhiên, Tiến sĩ Taylor, Khoa Nội tiết, Đái tháo đường và Dinh dưỡng, Trường Y Đại học Maryland, Baltimore, cũng lưu ý: “Tuy có những dữ liệu đáng tin cậy, nhưng bên cạnh đó bài báo cũng thực hiện tốt việc chỉ ra những hạn chế quan trọng.”
“Quan trọng nhất là những dữ liệu này không giải quyết các câu hỏi liên quan đến nguy cơ của liệu pháp điều trị dài hạn. Nên tham khảo lại dữ liệu đã công bố khoảng 2 năm trước ,khi quan sát thấy sự gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương ở những bệnh nhân được điều trị bằng rosiglitazone trong nghiên cứu ADOPT. Khoảng thời gian có thể liên quan đến mật độ khoáng cơ bản của xương tại thời điểm bắt đầu điều trị bằng thuốc. Những cân nhắc này có thể góp phần vào sự thay đổi quan sát được trong các kết quả liên quan đến xương trong các nghiên cứu khác nhau. ”
Mối quan tâm về thuốc ức chế SGLT2 và gãy xương xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2017 từ nghiên cứu CANVAS , trong đó nguy cơ gãy xương nói chung với canagliflozin cao hơn đáng kể 26% so với giả dược.Tuy nhiên, các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn hơn sau đó về canagliflozin và các chất ức chế SGLT2 khác không tìm thấy nguy cơ tương tự.
Ngoài ra, các nghiên cứu quan sát trước đây ở người trẻ tuổi cũng không phát hiện thấy việc sử dụng thuốc ức chế SGLT2 có liên quan đến tăng nguy cơ gãy xương so với thuốc ức chế DPP-4 hoặc chất chủ vận GLP-1.
Hiểu rủi ro gãy xương với thuốc ức chế SGLT2 là ” Cực kỳ quan trọng “
Người lớn tuổi mắc bệnh đái tháo đường típ 2 có thể có lợi vì giảm được các biến cố tim mạch do xơ vữa động mạch, nhập viện vì suy tim , bệnh thận giai đoạn cuối và tử vong liên quan đến thuốc ức chế SGLT2, nhưng thực tế là sự lão hóa có thể có tác động tiêu cực đến chuyển hóa xương có nghĩa là “hiểu được nguy cơ của tình trạng gãy xương liên quan đến thuốc ức chế SGLT2 ở người lớn tuổi mắc bệnh đái tháo đường típ 2 là rất quan trọng” Zhuo và các đồng nghiệp cho biết
Trong nghiên cứu hiện tại, họ đã phân tích dữ liệu đối với những người từ chương trình bảo hiểm y tế quốc gia ở Hoa Kỳ từ 66 tuổi trở lên (đủ điều kiện tham gia chương trình bảo hiểm y tế quốc gia 1 năm), những người mới được kê đơn thuốc ức chế SGLT2, chất ức chế DPP-4 hoặc chất chủ vận GLP-1 trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 4 năm 2013 đến ngày 31 tháng 12 năm 2017.
Tổng số 45.889 bệnh nhân từ mỗi nhóm điều trị được phù hợp với Phương pháp ghép cặp điểm khuynh hướng 58 đặc điểm cơ bản, trong tổng số 137.667 bệnh nhân.
Sau khi ghép cặp, có 501 trường hợp ( gãy xương chậu không do chấn thương , gãy xương hông cần phẫu thuật hoặc gãy xương hông, bán kính hoặc gãy xương cần can thiệp) trong vòng 30 ngày. Theo nhóm điều trị, tỷ lệ gãy xương trên 1000 người-năm lần lượt là 4,69, 5,26 và 4,71 đối với chất ức chế SGLT2, chất ức chế DPP-4 và chất chủ vận GLP-1.
Sự khác biệt giữa bệnh nhân dùng thuốc ức chế DPP-4 hoặc thuốc chủ vận GLP-1 so với thuốc ức chế SGLT2 là không có ý nghĩa, với odds ratio tương ứng là 0,90 và 1,00.
Kết quả vẫn nhất quán trong các phân tích độ nhạy và phân nhóm nhỏ khác nhau, bao gồm giới hạn dữ liệu chỉ ở nhóm canagliflozin. Nhìn chung, tỷ lệ gãy xương cao hơn ở giới tính nữ, già yếu, tuổi cao và sử dụng insulin, đồng nhất giữa các nhóm thuốc.
Nguy cơ té ngã và hạ đường huyết thấp hơn ở nhóm ức chế SGLT2 so với nhóm ức chế DPP-4 ([HR], 0,82), và không có sự khác biệt về việc ngất xỉu . Không có sự khác biệt nào trong số đó có ý nghĩa đối với nhóm ức chế SGLT2 so với nhóm chủ vận GLP-1.
Phù hợp với dữ liệu trước đây, nguy cơ nhiễm toan ceton do đái tháo đường cao hơn khi dùng thuốc ức chế SGLT2 so với thuốc ức chế DPP-4 và chất chủ vận GLP-1 (HR, 1,29 và 1,58), và nguy cơ nhập viện suy tim thấp hơn (HR, 0,42 và 0,69).
Nguồn : https://www.medscape.com/viewarticle/961683#vp_1
Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi ykhoa.org – vui lòng không reup khi chưa được cho phép!
Người dịch: Phương Linh