Những người đã có bằng chứng về việc nhiễm SARS-CoV-2, vi rút gây ra COVID-19, dường như được bảo vệ tốt để không bị tái nhiễm vi-rút, ít nhất là trong vài tháng, theo một nghiên cứu mới được công bố từ Viện Ung thư Quốc gia (NCI).
Phát hiện này có thể giải thích tại sao việc tái nhiễm dường như là tương đối hiếm và nó có thể có những tác động quan trọng đến sức khỏe cộng đồng, bao gồm các quyết định về việc quay trở lại nơi làm việc thể chất, đi học, ưu tiên phân phối vắc xin và các hoạt động khác.
Đối với nghiên cứu, các nhà nghiên cứu tại NCI, một phần của Viện Y tế Quốc gia, đã hợp tác với hai công ty phân tích dữ liệu chăm sóc sức khỏe (HealthVerity và Aetion, Inc.) và năm phòng thí nghiệm thương mại. Các phát hiện được công bố vào ngày 24 tháng 2 trên tạp chí JAMA Internal Medicine.
“Trong khi nghiên cứu ung thư và chăm sóc ung thư vẫn là trọng tâm chính trong công việc của NCI, chúng tôi rất mong muốn giúp sức bằng chuyên môn của mình trong khoa học huyết thanh học để giúp giải quyết đại dịch COVID-19 toàn cầu, theo yêu cầu của Quốc hội”. Giám đốc NCI Norman E. “Ned” Sharpless, M.D., là một trong những đồng tác giả của nghiên cứu cho biết. “Chúng tôi hy vọng rằng những kết quả này, kết hợp với những kết quả của các nghiên cứu khác, sẽ cung cấp thông tin cho các nỗ lực y tế cộng đồng trong tương lai và giúp ích trong việc thiết lập chính sách.”
“Dữ liệu từ nghiên cứu này cho thấy những người có kết quả dương tính từ xét nghiệm dường như có khả năng miễn dịch đáng kể đối với SARS-CoV-2, có nghĩa là họ có thể có ít nguy cơ bị nhiễm trùng hơn trong tương lai”, Lynne Penberthy, MD, MPH, phó giám đốc Chương trình Nghiên cứu Giám sát của NCI, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu cho biết. “Nghiên cứu bổ sung là cần thiết để hiểu thời gian bảo vệ này kéo dài bao lâu, ai có thể bị hạn chế bảo vệ và các đặc điểm của bệnh nhân, chẳng hạn như các tình trạng bệnh đi kèm, có thể ảnh hưởng đến việc bảo vệ như thế nào. Tuy nhiên, chúng tôi được khuyến khích bởi phát hiện sớm này.”
Xét nghiệm kháng thể – còn được gọi là xét nghiệm huyết thanh – phát hiện các kháng thể trong huyết thanh, là các protein của hệ thống miễn dịch được tạo ra để phản ứng với một chất lạ hoặc tác nhân lây nhiễm cụ thể, chẳng hạn như SARS-CoV-2.
Nghiên cứu này được đưa ra với nỗ lực nhằm hiểu rõ hơn liệu các kháng thể có thể phát hiện chống lại SARS-CoV-2 có bảo vệ mọi người khỏi sự tái nhiễm vi rút hay không và ở mức độ nào. Làm việc với HealthVerity và Aetion, NCI đã tổng hợp và phân tích thông tin bệnh nhân được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm năm phòng thí nghiệm thương mại (bao gồm cả Quest Diagnostics và Labcorp), hồ sơ y tế điện tử và các công ty bảo hiểm tư nhân. Điều này được thực hiện theo cách bảo vệ quyền riêng tư của thông tin sức khỏe của một cá nhân và tuân thủ các luật về quyền riêng tư của bệnh nhân có liên quan.
Các nhà nghiên cứu cuối cùng đã thu được kết quả xét nghiệm kháng thể cho hơn 3 triệu người đã xét nghiệm kháng thể SARS-CoV-2 trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 23 tháng 8 năm 2020. Kết quả này đại diện cho hơn 50% các xét nghiệm kháng thể SARS-CoV-2 thương mại được tiến hành tại Hoa Kỳ trong thời gian đó. Gần 12% các xét nghiệm này dương tính với kháng thể; hầu hết các xét nghiệm còn lại đều cho kết quả âm tính, và dưới 1% không kết luận được.
Khoảng 11% cá thể huyết thanh dương tính và 9,5% cá thể âm tính sau đó đã nhận được xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAAT) – đôi khi được gọi là xét nghiệm PCR – để tìm SARS-CoV-2. Nhóm nghiên cứu đã xem xét phần nào các cá nhân trong mỗi nhóm sau đó có kết quả NAAT dương tính, điều này có thể cho thấy một bệnh nhiễm trùng mới. Nhóm nghiên cứu đã xem xét kết quả NAAT trong nhiều khoảng thời gian: 0-30 ngày, 31-60 ngày, 61-90 ngày và> 90 ngày vì một số người đã khỏi bệnh sau khi nhiễm SARS-CoV-2 vẫn có thể thải ra vật chất virus (RNA ) trong tối đa ba tháng (mặc dù chúng có khả năng không lây nhiễm trong suốt thời gian đó).
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng, trong mỗi khoảng thời gian, từ 3% đến 4% cá thể âm tính có xét nghiệm NAAT dương tính. Nhưng trong số những người ban đầu có huyết thanh dương tính, tỷ lệ dương tính với xét nghiệm NAAT giảm dần theo thời gian. Khi các nhà nghiên cứu xem xét kết quả xét nghiệm 90 ngày trở lên sau lần xét nghiệm kháng thể ban đầu (khi bất kỳ loại coronavirus nào được NAAT phát hiện có khả năng phản ánh một đợt nhiễm trùng mới thay vì virus tiếp tục phát tán từ lần nhiễm trùng ban đầu), chỉ khoảng 0,3% những người đã từng bị huyết thanh dương tính có kết quả NAAT dương tính – khoảng một phần mười tỷ lệ ở những người đã có huyết thanh âm tính.
Mặc dù những kết quả này ủng hộ ý tưởng rằng việc có kháng thể chống lại SARS-CoV-2 có liên quan đến việc bảo vệ khỏi nhiễm trùng trong tương lai, các tác giả lưu ý những hạn chế quan trọng đối với nghiên cứu này. Đặc biệt, những phát hiện đến từ cách giải thích khoa học về dữ liệu trong thế giới thực, những dữ liệu này có thể được kiểm soát tốt hơn trong một thử nghiệm lâm sàng. Ví dụ, không biết tại sao những người đã xét nghiệm kháng thể dương tính lại tiếp tục làm xét nghiệm PCR. Ngoài ra, thời hạn bảo hộ không xác định; Các nghiên cứu với thời gian theo dõi dài hơn là cần thiết để xác định xem liệu khả năng bảo vệ có suy giảm theo thời gian hay không.
Để tiếp tục giải quyết một cách toàn diện câu hỏi nghiên cứu quan trọng này, NCI đang hỗ trợ các nghiên cứu lâm sàng theo dõi tỷ lệ nhiễm trùng trong một số lượng lớn những người có tình trạng kháng thể được biết đến. Đây được gọi là các nghiên cứu “bảo vệ huyết thanh”. NCI cũng đang tài trợ cho các nghiên cứu đang diễn ra bằng cách sử dụng dữ liệu trong thế giới thực để đánh giá tác động lâu dài hơn của tính tích cực của kháng thể đối với tỷ lệ lây nhiễm tiếp theo.
Nghiên cứu này là một phần của nỗ lực trị giá 306 triệu đô la mà NCI đã thực hiện theo yêu cầu của Quốc hội để phát triển, xác nhận, cải tiến và triển khai thử nghiệm huyết thanh học và các công nghệ liên quan áp dụng cho COVID-19. Thông qua việc chiếm hữu này, NCI đang làm việc với Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh; Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia, một bộ phận khác của NIH; và các cơ quan chính phủ khác để áp dụng kiến thức chuyên môn và khả năng nghiên cứu tiên tiến của mình để ứng phó với đại dịch này, bao gồm các nỗ lực xác định đặc điểm một cách chặt chẽ hiệu suất của các xét nghiệm huyết thanh học.
Tài liệu tham khảo:
- Raymond A. Harvey, Jeremy A. Rassen, Carly A. Kabelac, Wendy Turenne, Sandy Leonard, Reyna Klesh, William A. Meyer, Harvey W. Kaufman, Steve Anderson, Oren Cohen, Valentina I. Petkov, Kathy A. Cronin, Alison L. Van Dyke, Douglas R. Lowy, Norman E. Sharpless, Lynne T. Penberthy. Association of SARS-CoV-2 Seropositive Antibody Test With Risk of Future Infection. JAMA Internal Medicine, 2021; DOI: 10.1001/jamainternmed.2021.0366
Nguồn: Science Daily.
Link: https://www.sciencedaily.com/releases/2021/02/210224143532.htm
Tác giả: Ngọc Khánh.
Bài viết này được dịch thuật và biên tập bởi ykhoa.org, vui lòng không reup khi chưa được cho phép!