[Y khoa cơ bản] Bài 9: Cảm giác

Rate this post

I- MỤC TIÊU.

■ Vai trò của các loại cảm giác.

■ Xác định các thành phần và chức năng của đường dẫn truyền cảm giác.

■ Mô tả đặc điểm của các cảm giác.

■ Các cảm giác da và vai trò.

■ Cảm giác đau và tầm quan trọng của nó.

■ Tìm hiểu cảm giác sâu và chức năng.

■ Mô tả đường dẫn truyền của vị giác, khứu giác và mối liên hệ giữa chúng.

■ Xác định các thành phần và chức năng của thị giác.

■ Tìm hiểu sinh lý sự nhìn.

■ Xác định các thành phần và chức năng của thính giác.

■ Cơ chế sinh lý quá trình nghe.

■ Sinh lý sự thăng bằng.

■ Giải thích vai trò của receptor cảm nhận áp suất và hóa học của mạch máu.

II- NỘI DUNG.

  1. THUẬT NGỮ MỚI.

– Adaptation (A-dap-TAY-shun)

– After-image (AFF-ter-im-ije)

– Aqueous humor (AY-kwee-us HYOO-mer)

– Cochlea (KOK-lee-uh)

– Cones (KOHNES)

– Conjunctiva (KON-junk-TIGH-vah)

– Contrast (KON-trast)

– Cornea (KOR-nee-ah)

– Eustachian tube (yoo-STAY-shun TOOB)

– Iris (EYE-ris) Lacrimal glands (LAK-ri-muhl)

– Olfactory receptors (ohl-FAK-tohree)

– Organ of Corti (KOR-tee)

– Projection (proh-JEK-shun)

– Referred pain (ree-FURRD PAIN)

– Retina (RET-i-nah)

– Rhodopsin (roh-DOP-sin)

– Rods (RAHDS)

– Sclera (SKLER-ah)

– Semicircular canals (SEM-ee-SIRkyoo-lur)

– Tympanic membrane (tim-PAN-ik)

– Vitreous humor (VIT-ree-us HYOO-mer)

– Age-related macular degeneration (MAK-yoo-lar de-gen-er-AYshun)

– Amblyopia (am-blee-OH-pee-uh)

– Astigmatism (uh-STIG-mah-TIZM)

– Cataract (KAT-uh-rakt)

– Color blindness (KUHL-or BLINDness)

– Conjunctivitis (kon-JUNK-tiVIGH-tis)

– Deafness (DEFF-ness)

– Detached retina (dee-TACHD)

– Glaucoma (glaw-KOH-mah)

– Hyperopia (HIGH-per-OH-pee-ah)

– Motion sickness (MOH-shun)

– Myopia (my-OH-pee-ah)

– Night blindness (NIGHT BLINDness)

– Otitis media (oh-TIGH-tis MEEdee-ah)

– Phantom pain (FAN-tum)

– Presbyopia (PREZ-bee-OH-pee-ah)

– Strabismus (strah-BIZ-miss)

2. NỘI DUNG.

Bạn đã bao giờ tới một buổi trình diễn pháo hoa chưa? Sự bùng nổ của ánh sáng màu sắc, tiếng pháo nổ, tiếng hò reo và mùi của thuốc pháo tạo nên một khung cảnh đặc sắc và ấn tượng. Ta có thể tận hưởng được toàn bộ khung cảnh đó là nhờ các giác quan. Thậm chí khi ta không có quá nhiều ấn tượng về xung quanh, các giác quan vẫn cung cấp những thông tin nhất định. Vị giác và khứu giác giúp ta thưởng thức món ăn hoặc cảnh báo cho chúng ta đồ ăn bị hỏng hoặc không thể ăn. Cảm giác thăng bằng giúp ta đứng thẳng. Ta cũng nhận được các thông tin từ các giác quan, cảm giác về những sự thay đổi trong cơ thể. Thí dụ, cơn đau đầu, thúc đẩy ta tìm cách để gảm bớt nó như uống thuốc giảm đau. Nhìn chung, vai trò của các cảm giác là giuasp cơ thể có thể đáp ứng hợp lý với các tình huống thay đổi bên trong và ngoài cơ thể, đồng thời giữ vững cân băng nội môi.

ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN CẢM GIÁC

Các kích thích tương ứng với các cảm giác có đường dẫn truyền riêng, nhưng nhìn chung bao gồm các thành phần

1. Receptors—nhận ra thay đổi (kích thích) và tạo ra các xung động. Mỗi loại kích thích hay sự thay đổi của môi trường có những loại receptor riêng đáp ứng. Receptor ở võng mạc ghi nhận các tia sáng trong khi các receptor ở khoang mũi nhận cảm về hơi nước… Mỗi kích thích đặc hiệu lại có tác động đến các receptor khác nhau. Tuy nhiên tất cả chúng đều đáp ứng theo một nguyên lý chung bằng sụ dẫn truyền xung điện thần kinh. Các receptor chuyển năng lượng từ kích thích bên ngoài thành năng lượng điện học của đường dẫn truyền.

2. Neuron cảm giác—chuyển các tín hiệu từ receptor nhận cảm tới thần kinh trung ương. Các neuron cảm giác này có cả ở thần kinh ống sống và dây thần kinh sọ. Nhưng mỗi loại lại nhận được các kích thích riêng biệt từ một loại receptor tương ứng

3. Dải cảm giác— chất trắng ở ống sống hoặc não chuyển các xung động đến vùng chuyên biệt ở não.

4. Vùng cảm giác: hầu hết là ở vỏ não( hình 8.8 trang cuối). Những vùng này tiếp nhận, phân tích và “ phiên dịch” các cảm giác này. Tìm hiểu về sự chuyển đổi các xung động thần kinh thành các cảm giác có từ khi sinh ra, dù ta có chú ý hay không, nó vẫn cứ tiếp tục suốt đời.

ĐẶC ĐIỂM CÁC CẢM GIÁC

Một số đặc điểm của cảm giác sẽ giúp bạn hiểu các khu vực cảm giác hoạt động như thế nào với xung từ các thụ thể để tạo ra thông tin hữu ích về môi trường bên ngoài và bên trong:

1. Chiếu—cảm giác dường như đến từ khu vực nơi các thụ thể được kích thích. Nếu bạn chạm vào cuốn sách này, cảm giác xúc giác dường như nằm trong tay bạn nhưng thực sự cảm thấy được là bởi vỏ não của bạn. Điều đó được chứng minh bởi những bệnh nhân cảm thấy đau ảo sau khi cắt cụt chi. Ví dụ sau khi mất một bàn tay, người đó vẫn có thể cảm thấy rằng bàn tay thực sự ở đó. Lý do tại sao điều này xảy ra? Các receptor trong tay không còn hiện diện nữa, nhưng các đầu dây thần kinh bị đứt đoạn tiếp tục tạo xung. Những xung này di chuyển dọc theo các dây thần kinh bình thường đến tủy sống, đến vùng thùy đỉnh cho bàn tay, và bộ não làm những gì nó luôn luôn thực hiện với các xung từ những con đường dẫn truyềnnày và tạo ra sự chiếu, cảm giác rằng bàn tay vẫn còn đó. Đối với hầu hết những người tàn tật, đau ảo do hiện tượng chi ma giảm đi khi các dây thần kinh bị cắt đứt hồi phục, nhưng người đó thường trải qua một “sự có mặt” của phần chi còn thiếu. Điều này có thể hữu ích khi học cách sử dụng một chi giả. Một tình huống hơi khác, với kết quả tương tự, xảy ra đối với một số người đã bị điếc một phần hoặc ù tai. Một số thụ thể nghe đã bị hư hại và không tạo xung, do đó não không còn nhận xung nữa. Bộ não được sử dụng cho những xung động như vậy (hiếm khi chúng ta hoàn toàn im lặng trong một thời gian dài) rằng các khu vực thính giác cố gắng “lấp đầy” những gì chúng nhận thấy đang thiếu. Tiếng rít hoặc ù tai bất thường do bộ não tạo ra, và chiếu lên tai.

2. Cường độ – một số cảm giác được cảm nhận rõ ràng hơn và ở mức độ lớn hơn so với những cảm giác còn lại. Một kích thích yếu như ánh sáng mờ sẽ ảnh hưởng đến một số lượng nhỏ các thụ thể, nhưng một kích thích mạnh hơn, chẳng hạn như ánh sáng mặt trời, sẽ kích thích nhiều thụ thể hơn. Khi nhiều thụ thể hơn được kích thích, nhiều xung sẽ đến vùng cảm giác của não. Bộ não “đếm” các xung và tạo ra cảm giác mãnh liệt hơn.

3. Tương phảnt— hiệu ứng của cảm giác trước đó hoặc đồng thời trên cảm giác hiện tại, sau đó có thể bị phóng đại hoặc giảm đi. Một lần nữa, đây lại là một chức năng của bộ não, mà có sự liên tục so sánh cảm giác. Nếu, vào một ngày rất nóng, bạn nhảy vào hồ bơi, lúc đầu nước có thể cảm thấy khá lạnh. Bộ não so sánh cảm giác mới với cảm giácitrước đó, và vì có sự khác biệt đáng kể giữa cả hai, nước sẽ có vẻ lạnh hơn thực tế.

4. Thích ứng – trở nên trơ với một kích thích liên tục. Thụ thể phát hiện những thay đổi, nhưng nếu kích thích tiếp tục, nó có thể không có nhiều thay đổi, và các thụ thể sẽ tạo ra ít xung hơn. Nước trong hồ bơi mà dường như lạnh lúc đầu dường như “ấm lên” sau một vài phút. Nước không thay đổi nhiệt độ, và các thụ thể cảm lạnh không thay đổi để phát hiện, do đó chúng tạo ra ít xung hơn. Cảm giác lạnh giảm đi, và chúng ta cảm thấy rằng tăng độ ấm. Ví dụ khác, nhìn vào cổ tay trái của bạn (hoặc có lẽ là cổ tay phải). Nhiều người trong chúng ta đeo đồng hồ và có lẽ không biết sự hiện diện của nó trên cánh tay. Các receptor xúc giác hoặc áp suất thích nghi rất nhanh với một kích thích liên tục, và nếu không có thay đổi, không có gì cho các thụ thể phát hiệ

5. Hậu ảnh – cảm giác vẫn còn trong ý thức ngay cả sau khi kích thích đã ngừng lại. Một ví dụ quen thuộc là hình ảnh nhìn thấy sau khi xem đèn flash tắt. Ánh sáng rất sáng mạnh kích thích các thụ thể trong võng mạc, tạo ra nhiều xung được coi là một cảm giác mãnh liệt kéo dài lâu hơn kích thích thực tế. Và nếu bạn đã từng nghĩ rằng “tai tôi đang đổ chuông” sau khi nghe một âm thanh to lớn đột ngột, bạn đã trải qua quá trình hậu ảnh một âm thanh sau khi nghe.

CẢM GIÁC DA

Như bạn đã biết, da là một cơ quan lớn tạo thành ranh giới bên ngoài của cơ thể, và nó chứa hàng ngàn thụ thể. Lớp trung bì của da và mô dưới da có chứa các thụ thể cho cảm giác chạm, áp suất, nhiệt, lạnh, ngứa và đau. Các thụ thể cho nhiệt, lạnh, ngứa và đau là các đầu dây thần kinh trần, phản ứng với bất kỳ kích thích mạnh nào. Ví dụ, với áp lực mạnh hoặc cảm giác lạnh, cơ có thể là cảm nhận thấy đau. Các receptor xúc giác và áp suất là các đầu dây thần kinh có vỏ, có nghĩa là có một cấu trúc tế bào xung quanh đầu dây thần kinh (Hình 9–1).

Các giác cảm giác da mang đến cho chúng ta thông tin về môi trường bên ngoài và cũng về chính bản thân da. Phần lớn thông tin về môi trường không có tầm quan trọng lớn và được xử lý ở mức tiềm thức (bị ức chế bởi vùng dưới đồi), mặc dù chúng ta có thể chọn nhận thức được nó. Ví dụ, bạn có thể phân biệt một chiếc áo phông bằng vải cotton từ quần jean denim chỉ bằng chạm tay không? Có lẽ, nhưng bạn có thể không nhận ra rằng bạn có thể làm điều đó cho đến khi bạn thử nó bằng cách. Nếu bạn đang đi chân đất, bạn có thể phân biệt bạn đang đi trên thảm, sàn gỗ, bê tông hay cát biển? Đúng bạn có thể. Nhưng chúng ta nhận thức được cảm giác từ lòng bàn chân của chúng ta. Tuy nhiên, một số người bị tiểu đường phát triển tổn thương dây thần kinh làm suy yếu cảm giác, và họ có thể nói rằng đi bộ trên sàn gỗ có cảm giác như đang đi trên những quả bóng bông hoặc các cúc áo. Họ nhận thức được những cảm giác kỳ quặc như vậy đơn giản chỉ vì những cảm giác này khá là kỳ quặc và lạ lẫm với họ. Đối với hầu hết chúng ta, chạm chân vào sàn gỗ không được đưa đến nhận thức bởi vì nó là những gì bộ não mong đợi từ kinh nghiệm quá khứ, nhưng nếu sàn có mảnh vụn hoặc nếu cát bãi biển nóng, chúng ta chắc chắn nhận biết. Đây là thông tin chúng ta có thể mang đến cho ý thức của mình nếu cần thiết, nhưng thường thì không.

Đối với da, nếu bạn đã từng bị ngứa độc, bạn có thể nhớ sự ngứa ngáy của phát ban. Ngứa đã được được tìm thấy là một cảm giác khá phức tạp, và có ít nhất hai loại ngứa. Ngứa hóa học là kết quả của một chất kích thích như chất hóa học độc hoặc tuyến nước bọt của muỗi kích thích giải phóng histamin ở da. Đây là đáp ứng của hệ miễn dịch và histamin kích thích gây ngứa.

Ngứa cơ học có thể xảy ra khi vải thô gây kích ứng lên da hoặc bởi con bọ bò trên mặt da. Kiểu ngứa này có thể gây nên cảm giác đau nhẹ, dẫn đến đau mức độ nặng hơn nếu không có vết xước trên da.

Tại sao vết xước trên da giúp giảm ngứa cơ học, bên cạnh việc loại bỏ các chất kích thích bên ngoài ? Một cơ chế được đề xuất là vết thương( vết xước) đau hơn so với ngứa, các xung do nó tạo ra có thể làm phân tán bộ não khỏi các xung bởi kích thích do ngứa. Một đề xuất khác là xung động do vết xước tạo ra ngăn cản các neuron ở ống sống mà chính chúng là một phần của đường dẫn truyền cảm giác ngứa( một con chó sử dụng chân sau để gãi ngứa thực sự là phản xạ của tủy sống mà không đòi hỏi ở não). Tuy nhiên vết thương không làm giảm ngứa do chất hóa học, bởi vì vẫn còn các chất kích thích trên da. Chất kháng histamin trong một vài trường hợp có thể giúp giảm ngứa, nhưng đồng thời làm cho vết thương nặng hơn và miễn dịch ở chỗ đó xấu đi.

Các nhà lâm sàng đưa ra type ngứa thứ ba, có tên gọi “ngứa bệnh lý.” Những người có tiền sử bệnh gan, thận, đặc biệt là mắc ung thư hoặc HIV/AIDS có thể tiến triển ngứa không ngừng gây nên gián đoạn giấc ngủ hoặc thậm chí là hoạt động hằng ngày. Nguyên nhân chưa rõ và cũng chưa có điều trị hữu hiệu cho giaem đau và ngứa trong trường hợp này.

Vùng chi phối cảm giác da nằm ở thùy đỉnh. Bạn có thể xem lại ở chương 5, cảm giác của một vùng da được xác định bởi số lượng các receptor hiện hữu. Nghĩ rộng hơn thì, số lượng các receptoror tương ứng với kích thước vùng cảm giác trên vỏ não. càng nhiều receptor dưới da thì sẽ có càng nhiều neuron vỏ não có chức năng nhận và “phiên dịch” các xung động tương ứng. Phần lớn nhất ở vỏ não cảm giác là phần chi phối cảm giác da, với các receptor của da, đặc biệt là ở mặt và tay.

Như đã đề cập ở trước đó, vùng cảm giác không chỉ lad những vùng nhận xung thụ động. Xem xét cảm giác “ướt”, nó là một cảm giác bản năng, nhưng không có receptor cho cảm giác này ở trên da. Cảm giác xuất phát từ đâu? Tất cả các cảm giác đều xuất phát từ não. Thùy đỉnh sẽ học cách liên kết tiếp nhận đồng thời xung kích thích về nhiệt độ và áp suất với cảm giác “ướt” . Điều này có thể được chứng minh khi bạn đeo găng tay nhựa và nhúng tay vào một cốc nước, bạn sẽ cảm thấy các ngón tay có cảm giác ướt mặc dù chúng hoàn toàn khô. Cảm giác “ướt” là cảm giác qua học tập, được tạo ra bởi não.

ĐAU QUY CHIẾU

Tận cùng thần kinh trần được tìm thấy ở các cơ quan trong cơ thể. Ví dụ như cớ trơn ở ruột non, tận cùng thần kinh trần bị kích thích bởi sự giãn hoặc co quá mức, kết quả là tạo ra một cơn đau gọi là đau tạng. Đôi khi, cơn đau tạng lại được cảm nhận bởi cảm giác ở da, được gọi là cảm giác đau. Cơn đau do nhồi máu cơ tim được cảm nhận là đau ở vùng tay và vai trái, hoặc cơn đau do sỏi mật là đau ở vai phải. Định khu vùng đau quy chiếu trên hình 9.2.

Đau quy chiếu thực chất được tạo bởi não. Trong tủy sống có chứa các vùng cảm giác tạo bỏi các xung động ở da và các xung kích thích trong tạng. Xung động ở da thường nhiều hơn, và não đã thiết lập chính xác các các cảm giác ở da. Khi xung động tới từ mộ cơ quan nào đó ví dụ như tim, não vẫn sẽ thiết lập cảm giác ở vùng da thông thường, đó là ở vai trái và tay trái, phần cổ trái. Não thiết lập cảm giác dựa vào kinh nghiệm đã có, đau ở da xảy ra thường xuyên hơn đau tạng. Như trong các ví dụ được đề cập trước đó, ta thấy rằng hiểu biết về đau quy chiếu rất hữu ích cho các bác sĩ lâm sàng nhưng không thể được sử dụng độc lập. Chú ý trong hình 9-2 rằng một số vùng được gọi là đau khá nhỏ nhưng một số khu vực khá lớn, một số khu vực có vẻ rất hợp lý và các khu vực khác (hoặc một phần của chúng) không hợp lý và có một số khu vực chồng lên nhau. Tuy nhiên, gọi là đau quy chiếu là một khía cạnh hữu ích của chẩn đoán.

CẢM GIÁC BẢN THỂ

Cảm giác bản thể (còn gọi là cảm giác sâu hay cảm giác vận động) được đề cập tới ở chương 7 và sẽ được tóm lược ở đây. Thụ thể co cơ ( còn được gọi là proprio-ceptors hoặc thoi cơ) phát hiện sự co giãn cơ và tạo ra các xung, tới não để tạo ra “ một bản đồ “ cho biết cơ nào đang co và vị trí ở đâu. Cảm giác sâu ý thức đợc cảm nhận ở thùy đỉnh. Cảm giác sâu không ý thức được điều kiển bởi tiểu não để phối hợp tạo ra các chuyển động chủ động. Ta không thể thấy được các cơ để chắc rằng chúng thực sự co giãn theo các hành động dự tính. ngoài ra, cảm giác bản thể cũng góp phần trong khả năng phân biệt các hình dạng vật thể.

VỊ GIÁC

Receptor vị giác được tìm thấy ở nụ vị giác, hầu hết chúng nằm ở các nhú lưỡi (hình 9.3). Các receptor hóa học phát hiện ra các chất trong dịch ở miệng. Các chất hóa học này là thức ăn và dung môi là nước bọt (nếu miệng khô, việc nếm phụ thuộc vào bản năng). Có khoảng năm loại receptor cảm nhận vị chung( hoặc nhiều hơn) là ngọt, chua, mặn, đắng và ngon miệng. Ngon miệng là vị giống như thịt nướng (còn được gọi là umami hoặc glutamat). Lưỡi cũng có chứa các receptor cảm giác đau( nếu bạn vô tình cắn phải lưỡi khi đang hai thức ăn), và một trong số các receptor này chứa các receptor phân tử phát hiện nhiệt của thức ăn cay, ví dụ như ớt cay. Thường thì ta cảm nhận được nhiều hơn năm hoặc sáu vị khác nhau, tuy nhiên vì thức ăn là tập hợp các chất hóa học phức tạp, có thể kích thích các phức hợp receptor khác nhau và khứu giác cũng góp phần trong việc thương thức đồ ăn.

Một số vị được xem xét có liên quan đến tính chất di truyền. Những người có số lượng nụ vị giác lớn hơn trung bình có thể nếm bông cải rất đắng, trong khi người có ít hơn lại thích vị này. Sự thích nghi của cảm giác có xảy ra với vị giác không? Suy nghĩ một chút thì bạn có thể biết câu trả lời. Món ăn yêu thích đầu tiên thường có vị ngon nhất, nhưng các món còn lại cũng có vị khá ngon. vậy nên, đã có sự thích nghi ở đây.

Các xung động kích thích từ nụ vị giác được chuyển qua các dây thần kinh mặt và dây thiệt hầu (số 7 và số 9) tới vùng chi phối vị giác ở thùy đỉnh và thái dương. Vị giác cực kì quan trọng, góp phần vào việc ăn ngon miệng. Một số loại thuốc có thể gây cản trở vị giác và vị giác trở nên kém nhạy cảm hơn khi lớn tuổi. Đây có thể là yếu tố góp phần vào dinh dưỡng kém ở một số bệnh nhân và ở người già.

KHỨU GIÁC

Cũng như các giác quan khác, khứu giác mang đến cho chúng ta rất nhiều thông tin hữu dụng. Receptor của khứu giác (ngửi) là các receptor hóa học để phát hiện các hóa chất bốc hơi, có thể tràn vào các khoang mũi trên (xem Hình 9–3). . Cũng giống như các thụ thể vị giác, Khứu giác cũng có các thụ thể mùi đặc trưng, nghiên cứu chỉ ra rằng con người có hàng trăm thụ thể khác nhau. Khi được kích thích bởi các phân tử hơi, các receptor khứu giác tạo ra các xung được thực hiện bởi các dây thần kinh khứu giác (dây thần kinh sọ thứ nhất) qua xương sàng tới hành khứu. Đường dẫn truyền các xung này kết thúc ở vùng khứu giác nằm ở thùy thái dương. Hơi có thể kích thích nhiều tổ hợp receptor, và người ta ước tính rằng bộ não con người có khả năng phân biệt 10.000 mùi hương khác nhau.

Điều đó khá là ấn tượng, nhưng thức tế khứu giác của người kém phát triển hơn so với động vật. Thí dụ, chó có khứu giác nhạy hơn nguười gấp 2000 lần, với nhiều receptor hơn, nhưng đặc biệt là vì vỏ não khứu giác của chó là tương đối lớn hơn nhiều so với con người. (Người ta nói rằng con người sống trong thế giới qua con mắt , trong khi chó sống trong một thế giới mùi hương). Tuy nhiên, như đã đề cập trước đó, phần lớn những gì chúng ta gọi là hương vị, thực sự là mùi của thức ăn. Nếu bạn bị cảm lạnh và khoang mũi của bạn bị nghẹt, thức ăn sẽ không ngon như thường lệ. Thích ứng xảy ra tương đối nhanh chóng với mùi hôi. Mùi hương dễ chịu có thể phân biệt rõ rệt lúc đầu nhưng dường như nhanh chóng tiêu tan hoặc phai mờ, và thậm chí mùi hương khó chịu có thể mờ đi khi tiếp xúc lâu.

Mất khứu giác (mất dần có thể là một phần của sự lão hóa) không chỉ làm mất đi sự thích thú thưởng thức đồ ăn, mà còn có thể dẫn đến tổn hại. Chúng ta có xu hướng nhận biết về rò rỉ gas, một cái gì đó đang cháy, hoặc sự hư hỏng của thức ăn không phải bằng cách nhìn hoặc nghe hoặc chạm vào, mà là do khứu giác.

CẢM GIÁC ĐÓI VÀ KHÁT KHÁT

Đói và khát có thể được gọi là cảm giác nội tạng, trong đó chúng được kích hoạt bởi những thay đổi bên trong cơ thể. Đói dường như là một cảm giác phức tạp hơn nhiều so với suy nghĩ của chúng ta, nhưng cơn khát dường như đơn giản hơn nhiều. Các receptor cho cả hai cảm giác trên là các tế bào chuyên biệt ở vùng dưới đồi. Thụ thể cho cảm giác đói phát hiện những thay đổi ở mức độ các chất dinh dưỡng trong máu, mức độ hormone trong máu từ dạ dày và ruột non, và hormone leptin được tiết ra bởi mô mỡ; tất cả các tín hiệu hóa học này được thu thập bởi vùng dưới đồi. Các receptor cho cảm giác khát phát hiện những thay đổi trong hàm lượng nước trong cơ thể, mà thực chất là tỷ lệ giữa nước và muối.

Đương nhiên chúng ta không cảm thấy những cảm giác này ở vùng dưới đồi: chúng được thiết lập tương ứng với các tạng trong cơ thể. Đói được phản ánh lên dạ dày, làm dạ dày co lại. Cảm giác khát được phản ánh vào miệng và họng, và nước bọt được tạo ra.

Nếu không thỏa mãn bằng cách ăn uống, cảm giác đói dần dần giảm đi, đó là, sự thích ứng. Lý do là sau khi lượng chất dinh dưỡng trong máu giảm xuống, chúng trở nên ổn định, như chất béo trong mô mỡ được sử dụng cho năng lượng. Với ít hoặc không có hoạt động tiêu hóa trong đường tiêu hóa, tiết hormone giảm bớt. Không có những dao động mạnh về tín hiệu hóa học, các receptor ở vùng dưới đồi ít thay đổi để phát hiện và cơn đói trở nên ít dữ dội hơn. Sự thích nghi này có giới hạn, tuy nhiên, cơn đói có thể rất đau đớn.

Ngược lại, cảm giác khát, nếu thỏa mãn bằng cách uống nước, sự không thoải mái xuất hiện ngay từ lần đầu và tiếp tục xấu đi. Không có sự thích nghi. Khi nước trong cơ thể bị mất, lượng tiếp tục giảm và không ổn định. Do đó, có những thay đổi liên tục cho các receptor phát hiện, và cơn khát kéo dài có thể gây đau đớn.

THỊ GIÁC

MÍ MẮT VÀ HỆ THỐNG TIẾT NƯỚC MẮT

Mí mắt chứa cơ xương cho phép mí mắt đóng và che mặt trước của nhãn cầu. Lông mi dọc theo biên giới của mỗi mí mắt giúp giữ cho mắt không dính bụi. Mí mắt được lót bằng một màng mỏng gọi là kết mạc, nằm ở phía trên phần trắng của mắt và kết hợp với biểu mô giác mạc. Viêm màng này, được gọi là viêm kết mạc, có thể do dị ứng hoặc do vi khuẩn hoặc vi rút nhất định gây ra và làm cho mắt đỏ, ngứa và chảy nước.

Nước mắt được tạo ra bởi các tuyến lệ, nằm ở góc trên, bên ngoài của nhãn cầu, trong hốc mắt (Hình 9-4). Tiết nước mắt xảy ra liên tục nhưng tăng lên bởi sự có mặt của các hóa chất gây khó chịu (ví dụ như hơi hành tây) hoặc bụi, và trong một số tình huống cảm xúc (buồn hoặc hạnh phúc). Các ống dẫn nhỏ nước mắt vào phía trước của nhãn cầu, và nhấp nháy mí mắt lan tỏa những giọt nước mắt vào bề mặt nhãn cầu và rửa bề mặt của mắt. Nước mắt chủ yếu là nước, với khoảng 1% natri clorua, tương tự như các chất dịch cơ thể khác. Nước mắt cũng chứa lysozyme, một loại enzyme ức chế sự tăng trưởng của hầu hết các vi khuẩn trên bề mặt ẩm ướt, ấm áp của mắt. Ở góc giữa của mí mắt là hai khe hở nhỏ vào các kênh cấp trên và dưới. Những ống dẫn này rơi nước mắt vào túi nhỏ xíu (trong xương sống) gọi là túi lệ, dẫn đến ống lệ mũi, làm đổ nước mắt vào khoang mũi.

Đây là lý do tại sao khóc thường làm cho mũi nghẹt và tại sao virus cúm lạnh hoặc cúm truyền từ tay sang mắt sẽ kết thúc trong khoang mũi, nơi chúng có thể lây nhiễm đến các tế bào của lớp lót.

NHÃN CẦU

Hầu hết nhãn cầu nằm trong hốc mắt và được bảo vệ bởi hốc mắt, được hình thành bởi các hệ thống các xương: xương gò má, xương bướm, xương sàng, xương hàm trên, xương lệ và xương trán. Sáu cơ bên ngoài của mắt (Hình 9-5) được gắn vào các khe của hốc mắt đến bề mặt của nhãn cầu. Có bốn cơ thẳng di chuyển nhãn cầu lên xuống hoặc từ bên này sang bên kia; tên của cơ sẽ cho bạn biết hướng của cơ đó.

Hai cơ chéo (nghiêng) xoay mắt. Các dây thần kinh sọ bao phủ các cơ này là dây thần kinh sọ thứ 3, thứ 4 và thứ 6. Sự phối hợp rất nhanh chóng và phức tạp của các cơ này ở cả hai mắt không cần có sự tác động của suy nghĩ của cơ thể . Sự hội tụ của cả hai mắt trên một đối tượng là rất quan trọng để đảm bảo một hình ảnh duy nhất (điều này giúp ngăn chặn việc nhìn đôi) giúp chúng ta có những nhận thức sâu sắc về một thế giới ba chiều sống động.

CÁC LỚP CỦA NHÃN CẦU

Quan sát mặt cắt qua nhãn cầu, ta có thể thấy nhãn cầu có ba lớp: củng mạc, hắc mạc và vocng mạc (hình. 9– 6). Củng mạc là lớp dày nhất, và được tạo bởi mô liên kết sợi, chúng tạo nên phần màu trắng của nhãn cầu mà ta có thể quan sát bằng mắt được. Phần củng mạc ở phía trước được gọi là giác mạc, nó khác với phần còn lại của củng mạc ở chỗ nó trong suốt. Giác mạc không có mao mạch, bao gồm mống mắt và đồng tử bên trong mắt, và là phần đầu tiên của mắt mà ánh sáng khúc xạ, hoặc uốn cong tia sáng.

Lớp hắc mạc chứa các mạch máu và sắc tố màu xanh đậm (có nguồn gốc từ melanin) hấp thụ ánh sáng trong nhãn cầu và do đó ngăn ánh sáng chói (giống như cấu trúc màu đen của máy ảnh). Phần trước của hắc mạc được biến đổi thành các cấu trúc chuyên biệt hơn: cơ thể mi và cơ mống mắt. Cơ thể mi là một cơ trơn bao quanh cạnh của thấu kính hay còn được gọi là nhân mắt và được kết nối với thấu kính bằng dây chằng treo. Thủy tinh thể được tạo thành từ protein trong suốt, đàn hồi, và giống như giác mạc, không có mao mạch (xem bảng 9-1: Đục thủy tinh thể). Hình dạng của thủy tinh thể bị thay đổi bởi cơ mi (tạo thành một vòng tròn nhỏ hơn và thấu kính dày, hoặc giãn ra để tạo thành một vòng tròn lớn hơn với thấu kính mỏng), cho phép mắt tập trung ánh sáng từ các vật thể ở những khoảng cách khác nhau từ mắt.

Ngay trước ống kính là mống mắt, phần có màu của mắt; sắc tố của nó là một dạng của melanin. Những gì chúng ta gọi là “màu mắt” là màu của mống mắt và có đặc tính di truyền, giống như màu da. Hai loại cơ trơn trong mống mắt thay đổi đường kính của thủy tinh thể.Sự co rút của các sợi xuyên tâm làm giãn đồng tử và cho phép nhiều ánh sáng qua hơn; đây là một phản ứng của hệ giao cảm. Sự co rút của các sợi tròn bao quanh thủy tinh thể, đây là một đáp ứng ngoại cảm (chi phối bởi dây thần kinh vận động). Co thắt là một phản xạ bảo vệ võng mạc khỏi ánh sáng cường độ cao hoặc cho phép tầm nhìn gần hơn, như khi đọc.

Võng mạc nằm ở hai phần ba phía sau nhãn cầu và chứa các thụ thể thị giác, là các receptor hình nón và hình que (Hinh 9-7). Các tê bào que chỉ phát hiện ra sự hiện diện của ánh sáng, trong khi các tế bào hình nón phát hiện các màu sắc, như bạn có thể biết từ vật lý, là các bước sóng khác nhau của ánh sáng nhìn thấy. Các tế bào que có nhiều hơn ở phía ngoại vi, hoặc cạnh của võng mạc. Tầm nhìn tốt nhất của ta là trong ánh sáng mờ hoặc vào ban đêm, mà điều này phụ thuộc vào các
tế bào que. Còn tế bào nón phổ biến nhất ở trung tâm của võng mạc, đặc biệt là khu vực được gọi là vết võng mạc (điểm vàng), trực tiếp phía sau trung tâm của thủy tinh thể, trên trục thị giác. Hố trung tâm, trong đó chỉ chứa hình nón, là vùng điểm nhỏ nằm trong điểm vàngvà là khu vực cho tầm nhìn màu sắc tốt nhất.

Một nguyên nhân quan trọng gây mất thị lực ở những người trên 65 tuổi là thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi tác (AMD), tức là mất thị lực trung tâm và trong một số trường hợp dường như liên quan tới yếu tố di truyền. Ở dạng khô của AMD, các chất béo khối lượng phân tử nhỏ làm giảm lưu thông mạch máu đến các điểm vàng và các tế bào chết vì thiếu oxy. Ở dạng ướt của AMD, các mạch máu bất thường bắt đầu rò rỉ vào võng mạc, và các tế bào chết do tác hại bên ngoài mạch máu của. Mọi người ở mọi lứa tuổi nên nhận thức được tình trạng này và việc hút thuốc và phơi nhiễm tia cực tím là những yếu tố nguy cơ.

Khi ánh sáng tới võng mạc, các tế bào que và nón tạo ra các xung. Những xung động này được tạo bởi các tế bào thần kinh hạch, tất cả đều hội tụ ở đĩa thị giác (xem Hình 9-6 và 9-7) và đi qua các lớp của nhãn cầu, tới dây thần kinh thị giác. Không có tế bào que hoặc tế bào hình nón trong đĩa thị giác, vì vậy phần võng mạc này đôi khi được gọi là “điểm mù”. Chúng ta không nhận thức được điểm mù trong tầm nhìn của chúng ta, tuy nhiên, một phần vì đôi mắt liên tục chuyển động và một phần vì bộ não “lấp đầy” chỗ trống để tạo ra một bức tranh “hoàn chỉnh”.

CÁC KHOANG CỦA NHÃN CẦU

Có hai khoang trong mắt: khoang sau và khoang trước (xem hình 9-6). Các khoang sau lớn hơn được tìm thấy giữa thủy tinh thể và võng mạc, và có chứa dịch kính. Chất bán rắn này giữ cho võng mạc cố định tại chỗ. Nếu nhãn cầu bị thủng và thủy tinh thể bị mất, võng mạc có thể rơi ra khỏi màng mạch; đây là một nguyên nhân có thể có của võng mạc tách rời.

Các khoang phía trước được tìm thấy giữa mặt sau của giác mạc và mặt trước của thủy tinh thể và chứa thủy dịch, dịch mô của nhãn cầu. Thủy dịch được hình thành bởi mao mạch trong cơ thể mi, chảy phía trước qua đồng tử, và được tái hấp thu bởi kênh Schlemm (các tĩnh mạch nhỏ còn được gọi là xoang tĩnh mạch xơ cứng) tại điểm tiếp giáp của mống mắt và giác mạc.Bởi vì thủy dịch là chất lỏng, nên có thể nó có chức năng nuôi dưỡng mô

Thủy tinh thể và giác mạc không có mao mạch; chúng được nuôi dưỡng bởi dòng chảy liên tục của thủy dịch (xem bảng 9–2: Bệnh tăng nhãn áp).

SINH LÝ CỦA SỰ NHÌN

Ta thấy rằng, các tia sáng phải tập trung vào võng mạc và các xung thần kinh đến phải được truyền đến khu vực thị giác của vỏ não.

Khúc xạ tia sáng là hiện tượng một tia sáng bị lệch hướng khi nó truyền qua một vật thể và vào một vật thể khác có mật độ lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Sự khúc xạ ánh sáng bên trong mắt diễn ra qua các cấu trúc sau: cấu trúc giác mạc, thủy dịch, thấu kính và dịch kính. Thủy tinh thể là phần điều chỉnh duy nhất của hệ thống khúc xạ. Khi nhìn vào các vật thể ở xa, cơ giãn ra (một vòng tròn lớn hơn) và nhân mắt bị kéo dài, trở nên dài và mỏng. Khi mắt nhìn vào các vật thể gần, các cơ co tạo thành một vòng tròn nhỏ hơn, đàn hồi, nhân mắt phục hồi và phồng ở giữa, và có khả năng khúc xạ lớn hơn (xem Hộp 9-3: Lỗi khúc xạ).

Khi tia sáng tới võng mạc, chúng kích thích các phản ứng hóa học ở tế bào que và tế bào hình nón. Trong tế bào que, chất hóa học rhodopsin phân hủy để tạo thành scotopsin và retinal (một dẫn xuất của vitamin A). Phản ứng hóa học này tạo ra một xung điện, và rhodopsin sau đó được tái tổ hợp lại trong một phản ứng chậm hơn. Thích ứng với bóng tối, chẳng hạn như đi ra ngoài vào ban đêm, phải mất một chút thời gian bởi vì trong một khu vực đủ ánh sáng đã phá vỡ hầu hết các rhodopsin trong tế bào que và sự tái tổng hợp rhodopsin xảy ra chậm hơn. Tình huống ngược lại, khi đột nhiên bị đánh thức bởi ánh sáng chói chang, mắt có thể bị đau. Điều gì xảy ra? Trong bóng tối các tế bào que đã tái tổ hợp một lượng rhodopsin, chất này được cung cấp đầy đủ, và ánh sáng bất ngờ phá vỡ tất cả các rhodopsin cùng một lúc.

Các xung tạo ra rất mãnh liệt, và não có thể “phiên dịch” thành bất cứ cảm giác cường độ mạnh nào ví dụ như đau. Một vài phút sau, ánh sáng chói lòa có vẻ đỡ hơn vì các tế bào que này tái tạo từ từ rhodopsin, và nó không phá vỡ tất cả cùng một lúc.

Phản ứng hóa học trong tế bào nón, cũng liên quan đến võng mạc, bởi các bước sóng ánh sáng khác nhau.

Có ba loại tế bào nón: nón hấp thụ màu đỏ, hấp thụ màu xanh và nón hấp thụ màu xanh lá cây. Mỗi loại hấp thụ bước sóng trên khoảng một phần ba quang phổ ánh sáng nhìn thấy, do đó, các tế bào nón đỏ, ví dụ, hấp thụ ánh sáng của các bước sóng đỏ, cam và vàng. Các phản ứng hóa học trong tế bào hình nón cũng tạo ra các xung điện (xem bảng 9–4: Mù Ban Đêm và Mù Màu).

Các xung từ các tế bào que và tế bào nón được truyền đến các tế bào thần kinh hạch (xem Hình 9–7); hội tụ tại đĩa thị giác và dẫn truyền theo thần kinh thị giác. Tế bào thần kinh hạch dường như cũng có một hóa chất thụ quang (gọi là melanopsin) có thể đóng góp vào việc thiết lập lại đồng hồ sinh học hàng ngày của chúng ta.

Các dây thần kinh thị giác từ cả hai mắt đến gặp nhau tại giao thoa thị giác (chiasm), ở phía trước của tuyến yên (xem hình 9-8). Ở đây, các sợi trung gian của mỗi dây thần kinh thị giác đi qua phía bên kia. Sự giao nhau này cho phép từng khu vực thị giác nhận xung từ cả hai mắt, điều này rất quan trọng cho tầm nhìn hai mắt.

Đường dẫn truyền thị giác tiếp tục từ giao thoa thị giác đến các thùy chẩm. Trong hình 9-8, đầu tiên hãy nhìn hình ảnh trong bảng (phía dưới bên trái) để xem vị trí của các vùng. Sau đó, nhìn vào phần ở trên, bắt đầu ở hai võng mạc và thần kinh thị giác. Dọc theo đường đi của giao thoa thị giác và đánh dấu phần giao nhau của các nhánh . Theo dõi các vùng dây thần kinh sau và bạn sẽ thấy các nhánh ở giữa. Những nhánh này cung cấp thông tin cho các phản xạ thị giác như giữ cả hai mắt trên con ong đang bay hướng về phía bạn hoặc sự phối hợp của cả hai nhãn cầu để đọc; đây là trung gian của não giữa. Tiếp tục xa hơn về phía trước và bạn thấy rằng các sợi thần kinh hội tụ ở vùng dưới đồi. Nhớ lại rằng vùng dưới đồi rất quan trọng cho việc tích hợp thông tin cảm giác. Chúng ta dùng tầm nhìn gì? Để xem, có, nhưng cũng để đáp ứng với môi trường xung quanh của chúng ta. Vùng dưới đồi tích hợp và phân tán thông tin thị giác; có nghĩa là, nó truyền cho các bộ phận khác của bộ não, nơi sẽ sử dụng nó để đánh giá khoảng cách hoặc các mối quan hệ không gian, hoặc lập kế hoạch ở đâu và làm thế nào để một phần cơ thể.

chuyển động. Điều gì xảy ra khi bạn với lấy một cốc nước? Bạn thấy cốc nước bởi vì vùng dưới đồi đã chuyển thông tin đó đến não, thùy trán có thể tạo ra các xung cho các chuyển động thích hợp của cánh tay và bàn tay. Cuối cùng, hãy theo dõi các vùng của dải thị giác đến các khu vực thị giác. Đây là nơi “nhìn thấy” diễn ra, nơi xung động cảm giác được hiểu là hình ảnh. Các khu vực thị giác nằm trong các thùy chẩm của vỏ não. Lưu ý trong hình 9-8: khu vực hình ảnh bên trái nhận thông tin từ nửa trái của mỗi võng mạc (các đường nét đứt) và “nhìn thấy” nửa bên phải của trường thị giác của mỗi mắt. Tương tự, khu vực hình ảnh bên phải nhận thông tin từ nửa bên phải của mỗi võng mạc (các đường nét liền) và “nhìn thấy” nửa bên trái của trường thị giác của mỗi mắt. Mặc dù mỗi mắt truyền một hình ảnh hơi khác nhau (nhìn thẳng về phía trước và nhắm mắt lại để xem sự khác biệt giữa hai hình ảnh), các khu vực trực quan đặt chúng lại với nhau, hoặc tích hợp chúng để tạo một hình ảnh có chiều sâu và ba kích thước. Đây là tầm nhìn hai mắt. Các khu vực hình ảnh cũng biến hình ảnh thành thẳng đứng vì hình ảnh trên võng mạc bị lộn ngược. Hình ảnh trên phim trong máy ảnh cũng lộn ngược, nhưng chúng ta thậm chí không nhận ra bởi vì chúng ta nhìn vào hình ảnh bên phải lên. Bộ não cũng tự động đảm bảo rằng chúng ta nhìn thấy thế giới ở phía bên phải của ta.

Ngoài ra đối với tầm nhìn gần, chẳng hạn như đọc, đồng tử co lại để chặn các tia sáng ngoại vi làm mờ hình ảnh, và mắt hội tụ hơn để giữ hình ảnh trên các phần tương ứng của cả võng mạc. Tầm quan trọng của co thắt đồng tử có thể được chứng minh bằng cách nhìn vào trang này thông qua một lỗ nhỏ trong một mảnh giấy. Bạn sẽ có thể đọc trang nếu nhìn gần hơn vì giấy chặn ánh sáng từ hai bên.

Tầm quan trọng của hội tụ có thể được chứng minh bằng cách nhìn vào ngón tay của bạn đặt trên đầu mũi của bạn. Bạn có thể cảm thấy đôi mắt của bạn di chuyển trung gian (”chéo”) trong hội tụ tối đa. Nếu mắt không hội tụ, kết quả là thị lực kép; bộ não không thể tạo ra những hình ảnh rất khác nhau thành một và cuối cùng “co lại” thành hai hình ảnh (nhìn đôi). Tuy nhiên điều này là tạm thời, bởi vì bộ não cuối cùng sẽ ngăn chặn một hình ảnh.

Có thể bạn đã nghe nói về tình trạng gọi là “mắt lười” (tên chính thức là lác), trong đó mắt của một người (trục thị giác của mỗi mắt) không thể hướng vào chính xác cùng một điểm. Sự hội tụ thực sự là không thể và nếu không được điều trị, bộ não sẽ không sử dụng hình ảnh từ con mắt lười biếng. Con mắt đó có thể ngừng tập trung và trở thành mù chức năng bởi vì bộ não đang phớt lờ các xung thần kinh từ nó. Sự mất thị lực như vậy được gọi là chứng giảm thị lực. Việc điều chỉnh một mắt lười có thể liên quan đến các bài tập mắt (để làm cho mắt lười thẳng ra), một miếng dán trên mắt tốt hoặc phẫu thuật để điều chỉnh sự mất cân đối của các cơ bên ngoài. Hãy tưởng tượng Khi bạn là một hành khách trong một chiếc xe hơi (không phải là người lái xe), hãy di chuyển hai mắt hội tụ về phía gốc mũi. Khi chiếc xe đang di chuyển, hãy nhắm một mắt lại. Cảnh quan đang đến dường như nị san phẳng, mất kích thước? Đây có thể là mất nhận thức về một số trong ba chiều mà não cung cấp khi có hai hình ảnh đồng thời cùng hiện lên.

THÍNH GIÁC

Tai có ba vùng chính: tai ngoài, tai giữa và tai trong (Hinh 9-9). Tai có chứa các thụ thể cho hai cảm giác: nghe và thăng bằng. Các thụ thể này đều được tìm thấy ở tai trong.

TAI NGOÀI

Tai ngoài bao gồm vành tai và ống tai ngoài. Vành tai là sụn phủ da bên ngoài. Đối với động vật như chó, tai có thể di chuyển được, vành tai hoạt động như một phễu hứng sóng âm thanh. Tuy nhiên, đối với người, vành tai phẳng và đứng yên không quá quan trọng. Chức năng nghe sẽ không bị ảnh hưởng quá nhiều nếu không có nó, mặc dù những người đeo kính sẽ khiến thị lực bị giảm sút khi không có vành tai. Ống tai được lót bằng da có chứa các tuyến chất béo. Nó là một đường hầm nối vào tai giữa, cong nhẹ xuống và về phía trước.

TAI GIỮA

Tai giữa là một khoang chứa đầy không khí trong xương thái dương. Màng nhĩ căng phía cuối ống tai ngoài và rung khi sóng âm thanh truyền tới nó. Những rung động này được truyền đến ba xương thính giác: malleus, incus, và stapes (còn được gọi là xương búa, xương đe và xương bàn đạp, hình 9-9). Sau đó truyền rung động đến tai trong chứa đầy chất lỏng ở cửa sổ bầu dục.

Vòi tai (vòi eustach) kéo dài từ tai giữa đến mũi họng và cho phép không khí đi vào hoặc rời khỏi khoang tai giữa. Áp suất không khí ở tai giữa phải giống như áp suất khí quyển bên ngoài để màng nhĩ rung động đúng cách. Bạn có thể nhận thấy đôi tai của bạn “bật” khi ở trên máy bay hoặc khi lái xe đến độ cao cao hơn hoặc thấp hơn. Nuốt hoặc ngáp tạo ra “tiếng bốp” bằng cách mở các ống eustach và cân bằng áp suất không khí.

Các ống eustach của trẻ em ngắn và gần như ngang và có thể làm cho vi khuẩn lây lan từ họng đến tai giữa. Đây là lý do tại sao viêm tai giữa có thể là một biến chứng của viêm họng do liên cầu khuẩn.

TAI TRONG

Trong xương thái dương, tai trong là một khoang được gọi là mê đạo xương (mê đạo là một loạt các đường dẫn hoặc đường hầm nối với nhau, giống như mê cung nhưng không có kết thúc; xem hình 9-9), được lót bằng màng gọi là mê đạo màng. Ngoại dịch là chất lỏng được tìm thấy giữa xương và màng, và nội dịch là chất lỏng trong các cấu trúc màng của tai trong. Những cấu trúc này là ốc tai, có liên quan đến thính giác, và bóng bầu dục, cầu nang, và ống bán khuyên, tất cả đều liên quan đến trạng thái thăng bằng (Hình 9–10).

ỐC TAI

Ốc tai có hình dạng giống như một vỏ ốc có hai vòng rưỡi. Bên trong, ốc tai được chia thành ba thang chứa đầy chất lỏng. Thang trung gian là ống ốc tai, sàn trong đó là màng đáy hỗ trợ các thụ thể nghe trong cơ quan Corti (cơ quan xoắn ốc). Các thụ thể này được gọi là tế bào lông , có chứa phần kết thúc của nhánh ốc tai của dây thần kinh sọ thứ 8. Phần nhô ra các tế bào lông là màng mái (Hình 9– 11).

Quá trình nghe liên quan đến việc truyền các xung động và tạo ra các xung thần kinh. Khi sóng âm vào ống tai, các rung động được truyền qua chuỗi cấu trúc sau đây: màng nhĩ, xương đe, xương búa, xương bàn đạp, cửa sổ bầu dục của tai trong, và thang tiền đình, thang nhĩ trong ốc tai. Hãy tưởng tượng những rung động trong chất lỏng như những gợn sóng hoặc sóng. Các màng cơ bản gợn sóng và đẩy các tế bào lông của cơ quan Corti chống lại màng mái. Khi các tế bào lông uốn cong, chúng tạo ra các xung được vận dẫn truyền tới dây thần kinh sọ thứ 8 đến não. Có một số sợi của mỗi dây thần kinh sọ thứ 8 nằm ở phía bên kia, do đó các vùng thính giác trong các thùy thái dương của vỏ não nhận được các xung từ cả hai tai. Do vậy, những âm thanh được nghe và giải thích (xem bảng 9–5: Điếc).

Các neuron của vỏ não thính giác được sắp xếp theo thứ tự của độ cao của âm mà chúng ta “nghe” từ thấp đến cao, giống như bàn phím piano. Các khía cạnh khác của âm thanh “nghe được” bởi não là âm lượng, nhịp điệu và nhịp độ (đặc biệt là âm nhạc), và âm sắc, là chất lượng của một âm (ví dụ một cây sáo nhỏ với một cái vòi, hoặc giọng của một đứa trẻ so với một giọng của người lớn).

Các vùng thính giác ở não cũng cho phép chúng ta xác định hướng âm thanh đến. Để làm điều này, các khu vực thính giác đếm và so sánh số lượng xung đến từ mỗi tai trong. Ví dụ, nếu nhiều xung đến từ ốc tai trái hơn từ bên phải, âm thanh sẽ được chiếu sang trái và được nhận biết là đến từ bên trái. Nếu nguồn âm thanh nằm ngay phía trên đầu bạn, âm thanh dường như đến từ mọi hướng bởi vì mỗi khu vực thính giác nhận được xấp xỉ cùng một số xung và không thể chiếu cảm giác này sang một bên hay bên kia.

Sự thích ứng xảy ra trong cảm giác nghe. Chẳng hạn, tiếng ồn của điều hòa không khí hay cuộc trò chuyện trong phòng khác có thể là tất cả các âm nghe được nhưng không được chú ý sau một thời gian. Nếu không có sự thích ứng như vậy, cái mà chúng ta gọi là “tiếng ồn nền” sẽ không tồn tại. Tất cả các âm thanh sẽ kêu gọi sự chú ý của chúng ta và ta sẽ không thể tập trung được. Tuy nhiên thích nghi không xảy ra với âm thanh lớn, hoặc âm thanh đáng sợ và chúng ta vẫn ý thức được những điều đó.

Cấu trúc cuối cùng trong đường nghe là cửa sổ tròn (xem Hình 9–10). Cửa sổ tròn được bao phủ bởi màng, ngay dưới cửa sổ hình bầu dục, rất quan trọng để giảm áp lực trong ốc tai. Khi xương bàn đạp đẩy chất lỏng trong cửa sổ hình bầu dục, cửa sổ tròn phình ra, ngăn ngừa tổn hại cho các tế bào lông.

SOAN NANG VÀ CẦU NANG

Các soan nang và cầu nang là các túi màng ở trong một khu vực được gọi là tiền đình, giữa ốc tai và ống bán khuyên. Trong soan nang và cầu nang là các tế bào lông được nhúng trong một màng gelatin với các tinh thể nhỏ cacbonat canxi gọi là otolith. Lực hấp dẫn kéo trên các viên đá otolith và uốn cong các tế bào lông khi vị trí của đầu thay đổi (Hình 9–12). Các xung được tạo ra bởi các tế bào lông này được thực hiện bởi phần tiền đình của dây thần kinh sọ thứ 8 đến tiểu não, giữa não và các thùy thái dương của não.

Tiểu não và não giữa sử dụng thông tin này để duy trì trạng thái thăng bằng ở mức tiềm thức. Tất nhiên, chúng ta có thể nhận thức được vị trí của đầu, và não đã cung cấp cho ta nhận thức đó.

ỐNG BÁN KHUYÊN

Ba ống bán khuyên có hình bầu dục chứa đầy chất lỏng được định hướng trong ba mặt phẳng khác nhau. Tại đáy của mỗi phần là phần mở rộng gọi là bóng ống bán khuyên (xem hình 9–10), có chứa các tế bào lông bị ảnh hưởng bởi chuyển động. Khi cơ thể di chuyển về phía trước, các tế bào lông được uốn cong về phía sau lúc đầu và sau đó thẳng (xem Hình 9–12). Sự uốn cong của các tế bào lông tạo ra các xung được thực hiện bởi nhánh tiền đình của dây thần kinh sọ thứ 8 đến tiểu não, não giữa và các thùy thái dương của não. Những xung này được hiểu là bắt đầu hoặc dừng, và tăng tốc hoặc giảm tốc, hoặc thay đổi hướng, và thông tin này được sử dụng để duy trì trạng thái cân bằng trong khi chúng ta đang di chuyển (xem bảng 9-6: Say tàu xe).

Tóm lại sau đó, các soan nang và cầu nang cung cấp thông tin về vị trí của cơ thể ở phần còn lại, trong khi các ống bán khuyên cung cấp thông tin về cơ thể trong chuyển động. Tất nhiên, có một số chồng lên nhau, và bộ não đặt tất cả các thông tin lại với nhau để tạo ra một cảm giác duy nhất về vị trí cơ thể.

RECEPTOR ĐỘNG MẠCH

Động mạch chủ và động mạch cảnh chứa các receptor phát hiện những thay đổi trong máu. Cung động mạch chủ, nhận máu được bơm bởi tâm thất trái của tim. Động mạch cảnh trái và phải là nhánh của cung động mạch chủ đưa máu qua cổ trên đường đến não. Trong mỗi mạch máu này chứa các receptor cảm nhận áp suất và hóa học (xem hình 12–8 trong Chương 12).

Các receptor cảm nhận áp suất trong xoang động mạch cảnh và cung động mạch chủ phát hiện những thay đổi trong huyết áp. Các receptor cảm nhận hóa học động mạch cảnh và cung động mạch chủ phát hiện những thay đổi về hàm lượng oxy, carbon dioxide và độ pH của máu. Các xung được tạo ra bởi các thụ thể này không được hiểu là cảm giác mà chúng ta cảm thấy, mà đúng hơn là thông tin được sử dụng để thực hiện bất kỳ thay đổi cần thiết nào trong hô hấp hoặc tuần hoàn. Chúng ta sẽ trở lại điều này trong các chương sau.

Nếu mức độ oxy trong máu giảm đáng kể, sự thay đổi này (phát hiện thiếu oxy) được phát hiện bởi các chất đồng hóa trị và động mạch chủ. Các xung cảm giác được thực hiện bởi các dây thần kinh thiệt hầu (9 sọ) và dây thần kinh phế vị (10 sọ) đến tủy. Các trung tâm trong tủy có thể làm tăng tốc độ hô hấp và nhịp tim để thu được và lưu thông nhiều oxy hơn. Đây là những phản xạ hô hấp và tim được đề cập trong Chương 8 như các chức năng của các dây thần kinh thiệt hầu và thần kinh phế vị . Tầm quan trọng của những phản xạ này là rõ ràng: để duy trì lượng oxy trong máu và carbon dioxide bình thường và duy trì huyết áp bình thường.

TUỔI TÁC VÀ GIÁC QUAN

Tất cả các giác quan có thể bị giảm đi trong tuổi già. Trong mắt, đục thủy tinh thể có thể làm cho thủy tinh thể đục. Thủy tinh thể cũng mất độ đàn hồi và mắt trở nên nhìn xa hơn, một tình trạng gọi là viễn thị. Nguy cơ tăng nhãn áp tăng và người cao tuổi nên được xét nghiệm. Thoái hóa điểm vàng, trong đó tầm nhìn trung tâm trở nên suy yếu, là nguyên nhân chính gây mất thị lực cho những người trên 65 tuổi. Việc đọc và kết thúc mọi việc trở nên khó khăn.

Trong tai, tổn thương tích lũy cho các tế bào lông trong cơ quan Corti thường trở nên rõ ràng sau 60 tuổi. Các tế bào lông đã bị hư hại trong suốt đời không thể thay thế được (sự tái sinh của các tế bào lông ốc tai đã được kích thích ở chột lang nhà và chuột nhảy gerbil có tế bào gốc của người, nhưng chưa được chứng minh ở người).

Điếc của tuổi già dao động từ mỏng đến sâu; âm thanh rất cao thường bị mất đầu tiên, trong khi nghe vẫn có thể nghe được âm thanh có âm lượng thấp. Cảm giác thăng bằng có thể bị giảm đi; cơ thể phản ứng chậm hơn để nghiêng và ngã có thể trở nên thường xuyên hơn. Tập thể dục thường xuyên, đơn giản như đi bộ, và đặc biệt là tập thể dục có âm nhạc, có thể giảm thiểu mất cảm giác cân bằng.

Cả vị giác và khứu giác trở nên ít nhạy hơn ở tuổi cao, có thể góp phần vào dinh dưỡng kém ở người cao tuổi.

TỔNG KẾT

Thay đổi diễn ra xung quanh chúng ta, cũng như trong chúng ta. Nếu cơ thể không thể đáp ứng một cách thích hợp với những thay đổi về môi trường và nội môi, cân bằng nội môi sẽ sớm bị phá vỡ, dẫn đến chấn thương, bệnh tật hoặc thậm chí tử vong. Để đáp ứng một cách thích hợp với những thay đổi, bộ não phải biết chúng là gì. Truyền đạt thông tin này đến bộ não của chúng ta là chức năng của con đường cảm giác. Chúng ta không thể tồn tại trong một thời gian dài nếu không có giác quan.

Bạn đã quen thuộc với vai trò của hệ thần kinh trong việc điều chỉnh phản ứng của cơ thể với những thay đổi của cảm giác. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về hệ thống điều tiết khác, hệ thống nội tiết. Các nội tiết tố của các tuyến nội tiết được tạo ra để đáp ứng với những thay đổi, và tác dụng điều hòa của chúng đều góp phần vào cân bằng nội môi.

Advertisement

TÓM LƯỢC

Vai trò của cảm giác — để phát hiện những thay đổi trong môi trường bên ngoài hoặc bên trong cho phép cơ thể đáp ứng thích hợp để duy trì cân bằng nội môi

Đường dẫn truyền cảm giác- đường dẫn truyền xung động của một cảm giác cảm giác

1. Receptor- phát hiện ra kích thíchvà tạo ra các xung điện:

2. Neuron cảm giác- chuyển xung động từ các receptor đến hệ thần kinh trung ương.

3. Dải cảm giác- chất trắng trong hệ thần kinh trung ương.

4. Vùng cảm giác- hầu hết ở vỏ não, cảm nhận và phiên dịch các cảm giác.

Đặc điểm các cảm giác

1. Chiếu – cảm giác dường như đến từ khu vực nơimà các receptor được kích thích, mặc dù bộ não thực sự cảm nhận được cảm giác.

2. Cường độ — mức độ cảm giác được cảm nhận; một kích thích mạnh ảnh hưởng đến nhiều receptor hơn, nhiều xung hơn được gửi đến não và được hiểu là cảm giác mãnh liệt hơn.

3. Tương phản — ảnh hưởng của cảm giác trước đó hoặc đồng thời trên cảm giác hiện tại khi não so sánh chúng.

4. Thích ứng – trở nên trơ về một kích thích liên tục; nếu kích thích vẫn không đổi, thì không có sự thay đổi nào cho các receptor phát hiện

5. Hậu ảnh – cảm giác vẫn còn trong ý thức sau khi kích thích đã ngừng lại; thường đúng đối với cảm giác cường độ lớn.

Cảm giác da – cung cấp thông tin về môi trường bên ngoài và bản thân da

1. Lớp hạ bì có các đầu dây thần kinh trần là các receptor để giảm đau, ngứa, nóng và lạnh, cũng như các dây thần kinh có vỏ là các receptor xúc giác và áp suất (xem hình 9–1).

2. Vùng cảm giác nằm trong các thùy đỉnh.

3. Đau quuy chiếu là đau nội tạng được cảm nhận như là đau dưới da (xem hình 9–2). Các đường dẫn truyền phổ biến trong CNS dẫn truyền cả xung động ở da và nội tạng; não thường chiếu cảm giác đến vùng nhận xung động, thường xuyên là ở da.

Cảm giác bản thể — biết cơ của chúng ta ở đâu mà không cần nhìn vào chúng

1. Các receptor co giãn trong cơ phát hiện co giãn cơ kéo dài; não tạo ra một bản đồ của cơ bắp.

2. Các vùng cảm giác cho cảm giác sâu có ý thức nằm trong các thùy đỉnh.

3. Tiểu não sử dụng cảm giác sâu không ý thức để điều khiển chuyển động tự ý.

Vị giác (hình 9.3)

1. Receptor có ở nụ vị giác trên lưỡi; phát hiện hóa chất (thực phẩm) trong dung dịch (nước bọt) trong miệng.

2. Năm vị cơ bản: ngọt, chua, mặn, đắng và ngon miệng; thực ăn kích thích sự tổ hợp của receptor cảm giác đau cho thức ăn “nóng”.

3. Đường dẫn truyền: các dây thần kinh mặt và thiệt hầu đến vùng vị giác trong thùy thái dương.

4. Sự thích nghi không xảy ra.

Khứu giác

1. Receptor hóa họctrong khoang mũi trên; khoảng vài trăm loại khác nhau; phát hiện các hóa chất bay.

2. Đường dẫn truyền: thần kinh khứu giác đến bóng khứu giác đến các vùng khứu giác trong thùy thái dương.

3. Khứu giác đóng góp rất nhiều vào những gì chúng ta gọi là hương vị.

4. Sự thích nghi xảy ra tương đối nhanh chóng.

Đói và khát – cảm giác nội tạng

1. Receptor tiếp nhận cảm giác đói trong vùng dưới đồi, phát hiện những thay đổi trong kích thích các hormon GI và mức độ dinh dưỡng trong máu; cơn đói được chiếu lên dạ dày; sự thích ứng xảy ra lúc đầu.

2. Receptor cảm ứng khát: ở vùng dưới đồi, receptor thẩm thấu phát hiện những thay đổi trong nước cơ thể (tỷ lệ muối nước); khát được chiếu lên miệng và họng; sự thích ứng không xảy ra.

Mắt (xem Hình 9–4 đến 9–8)

1. Mí mắt và lông mi lan rộng nước mắt và tránh bụi bẩn; kết mạc che phủ phần trắng của mắt.

2. Tuyến lệ tạo ra nước mắt, chảy quua nhãn cầu đến hai ống dẫn nước mắt, đến túi lệ bên cạnh ống dẫn đến khoang mũi. Nước mắt rửa bề mặt nhãn cầu ở trước và chứa lysozyme để ức chế sự phát triển của vi khuẩn.

3. Hầu hết nhãn cầu được bảo vệ bởi hốc mắt.

4. Sáu cơ bên ngoài di chuyển nhãn cầu; điều khiển bởi các dây thần kinh sọ thứ 3, thứ 4 và thứ 6.

5. Củng mạc — lớp ngoài cùng của nhãn cầu, được tạo bởi mô liên kết xơ; phần trước là giác mạc trong suốt, cấu trúc khúc xạ ánh sáng đầu tiên của mắt.

6. Hắc mạc— lớp giữa của nhãn cầu; sắc tố màu xanh xám hấp thụ ánh sáng để ngăn chói trong nhãn cầu.

7. Cơ thể mi và dây chằng treo thấu kính— thay đổi hình dạng của thấu kính, được tạo thành từ một loại protein đàn hồi trong suốt và có khả năng khúc xạ ánh sáng.

8. Mống mắt— hai cơ trơn điều chỉnh đường kính của đồng tử, nghĩa là, Điều chỉnh số lượng ánh sáng tới võng mạc.

a. Vòng tia làm giãn đồng tử.

b. Cơ vòng mi co nhỏ đồng tử.

9. Võng mạc — lớp của nhãn cầu ở phía bên trong nhất; chứa qtế bào que và nón.

a. Tế bào que — phát hiện ánh sáng; có nhiều ở phía ngoại biên võng mạc.

b. Tế bào nón — phát hiện màu; phổ biến ở trung tâm võng mạc.

c. Hố trung tâm — ở trung tâm của điểm vàng; chỉ chứa tế bào nón; ánh sáng tới đây làm mắt có tầm nhìn về màu sắc tốt nhất

d. Điểm mù – không có qtế bào que hoặc nón; dây thần kinh thị giác đi quua nhãn cầu.

10.Khoang ở giữa võng mạc và thủy tinh thể chứa dịch kính.

11. khoang phía trướcthấu kính, ở giữa giác mạc và thấu kính chứa thủy dịch nuôi dưỡng thấu kính và giác mạc; được thực hiện bởi mao mạch của cơ thể mi, chảy qua đồng tử, được tái hấp thu vào máu tại kênh Schlemm.

Sinh lý quá trình nhìn

1. Các cấu trúc ở mắt khúc xạ tia sáng tới mắt: giác mạc, thủy dịch, thấu kính, dịch kính.

2. Thấu kính được điều chỉnh bằng cách: cơ thể mi giãn làm cho tầm nhìn xa, và thấu kính mỏng. Cơ thể mi co lại làm cho tầm nhìn gần, và thấu kính đàn hồi dày lên.

3. Ánh sáng chiếu tới võng mạc và kích thích phản ứng hóa học trong tế bào que và nón.

4. Trong tế bào que: rhodopsin bị phân hủy thành scotopsin và retinal (từ vitamin A), và một xung điện được tạo ra. Trong tế bào nón: các bước sóng ánh sáng cụ thể được hấp thụ (đỏ, xanh dương, xanh lục); phản ứng hóa học tạo ra các xung thần kinh.

5. Neuron hạch từ tế bào que và nón tạo thành dây thần kinh thị giác, đi qua nhãn cầu ở đĩa thị giác.

6. Giao thoa thị giác– nơi gặp nhau của các nhánh trung gian của cả hai bên thần kinh thị giác.

7. Dải thị giác — các đường dẫn truyền thần kinh (xem hình 9–8) từ Đĩa thị giác đến não; các xung chuyển tới não giữa để phản xạ thị giác???( visual flexes); hội tụ ở vùng dưới đồi để hội nhập và phân tán; tiếp tục đến các thùy chẩm để xem xét và phiên dịch.

8. Các vùng thị giác trong thùy chẩm – mỗi khu vực nhận xung từ cả hai mắt; cả hai khu vực tạo ra một hình ảnh từ hai hình ảnh hơi khác nhau của mỗi mắt; cả hai khu vực cho hình ảnh trên võng mạc lộn ngược.

Thính giác ( hình. 9–9 đến 9–12)

1. Tai. — Vành tai không có chức năng rõ ràng ở người, ống tai cong về phía trước và xuống xương thái dương.

2. Tai giữa — màng nhĩ ở cuối ống tai rung khi sóng âm thanh truyền đến nó. Tiếp tục tới xương búa, đe, xương bàn đạp; truyền đến tai trong ở cửa sổ hình bầu dục.

a. Vòi Eustach- kéo dài từ tai giữa đến mũi họng; cho phép không khí vào và ra khỏi tai giữa để cho phép màng nhĩ rung; áp suất không khí ở tai giữa phải bằng áp suất khí quyển.

3. Tai trong- mê đạo xương trong xương thái dương, lót bằng mê đạo màng. Ngoại dịch là chất lỏng giữa xương và màng; Nội dịch là chất lỏng trong màng. Cấu trúc màng là ốc tai màng, soan nang, cầu nang, và ống bán khuyên.

4. Ốc tai- hình ốc; có ba thang; ống ốc tai chứa các thụ thể để nghe: các tế bào lông trong cơ quan Corti; các tế bào này chứa các đầu sợi của nhánh ốc tai của dây thần kinh sọ thứ 8.

5. Sinh lý thính giác – sóng âm kích thích sự rung động của màng nhĩ, xương búa, đe, xương bàn đạp, cửa sổ bầu dục của tai trong, ngoại dịch và nội dịch của ốc tai, và các tế bào lông của cơ quan Corti. Khi các tế bào lông uốn cong, các xung động được tạo ra và dẫn truyền bởi dây thần kinh sọ thứ 8 đến các vùng thính giác trong các thùy thái dương. Cửa sổ tròn ngăn chặn tổn hại áp lực cho các tế bào lông.

6. Soan nang và cầu nang, các bóng tạo bởi màng nằm trong phần tiền đình của tai trong; mỗi loại chứa các tế bào lông bị ảnh hưởng bởi trọng lực. Khi vị trí của đầu thay đổi, otoliths uốn cong các tế bào tóc, tạo ra các xung dọc theo nhánh tiền đình của dây thần kinh sọ thứ 8 đến tiểu não, giữa não và não. Các xung được hiểu là vị trí của đầu ở phần còn lại.

7. Ống bán khuyên – ba ống hình bầu dục màng nằm trong ba mặt phẳng; phần nền rộng phía dưới là các bóng ống bán khuyên, chứa các tế bào lông bị ảnh hưởng bởi chuyển động. Khi cơ thể di chuyển, các tế bào lông uốn cong theo hướng ngược lại, tạo ra các xung dọc theo nhánh tiền đình của dây thần kinh sọ thứ 8 tới tiểu não, giữa não và não. Xung động được hiểu là chuyển động của cơ thể, thay đổi tốc độ, dừng hoặc bắt đầu.

Receptor ở động mạch lớn- phát hiện sự thay đổi chất trong máu

1. Cung động mạch chủ — động mạch hình cung phía trên tim. Cung động mạch chủ có chứa các receptor cảm nhận áp suất; thân động mạch chủ chứa các receptor hóa học; dây thần kinh cảm giác là dây phế vị (dây thứ 10 sọ não).

2. Động mạch cảnh bên phải và trái ở cổ; xoang động mạch cảnh có chứa receptor cảm nhận áp suất, thân động vật cảnh có chứa receptor hóa học; dây thần kinh cảm giác là dây thần kinh thiệt hầu ( dây sọ số 9).

3. Receptor cảm nhận áp suất phát hiện những thay đổi trong huyết áp; receptor hóa học phát hiện những thay đổi về nồng độ pH hoặc oxy và CO2 trong máu. Thông tin này được sử dụng bởi các trung tâm quuan trọng trong tủy để thay đổi hô hấp hoặc tuần hoàn để duy trì oxy máu bình thường và CO2 và huyết áp bình thường.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Xác định hai chức năng cơ bản của receptor. Giải thích vai trò của neuron cảm giác và dải cảm giác.

2. Kể tên các receptor dưới da và giải thích tầm quan trong của chúng.

3. Kể tên receptor cảm giác bản thể và các phần của não liên quan đến cảm giác bản thể.

4. Receptor hóa học của vị giác và khứu giác giúp phát hiện gì? Xác định thần kinh sọ và thùy của não chi phối cho các cảm giác này.

5. Kể tên các bộ phận của mắt tướng ứng với mỗi chức năng dưới đây;

a. Thay đổi hình dạng thủy tinh thể

b. Chứa tế bào nón và tế bào que.

c. Tạo nên phần lòng trắng của mắt

d. Tạo thành thần kinh thị giác

e. Bụi không dính vào mắt

f. Thay đổi kích thước của đồng tử

g. Tạo ra nước mắt

h. Hấp thụ ánh sáng trong nhãn cầu để tránh ánh sáng chói

6. Đối với quá trình nhìn

a. Kể tên cấu trúc và các vật chất của mắt tạo nên khúc xạ ánh sáng

b. Tế bào que phát hiện gì và tế bào nón phát hiện gì. Điều gì xảy ra với các receptor này khi ánh sáng chiếu tới chúng?

c. Kể tên thần kinh sọ chi phối quá trìnhvà bộ phận nào của não chứa vùng thị giác?

7. Đói với thính giác

a. Tên bộ phận của tai dẫn truyền sóng âm

b. Xác định vị trí của receptor thính giác

c. Xác định vị trí của receptor đảm nhận sự thăng bằng

d. Cho biết vị trí của các receptor đáp ứng với chuyển động

e. Hai chức năng của thần kinh sọ số 8

f. Thùy nào của não liên quan đến quá trình nghe

g. Hai bộ phận của não liên quan đến thăng bằng

8. Xác định tên:

a. VỊ trí và chức năng của receptor hóa học của động mạch

b. VỊ trí và chức năng của receptor áp suất của động mạch

c. Thần kinh sọ liên quan đến quá trình hô hấp và tuần hoàn, bộ phận nào của não điều chỉnh các quá trình quan trọng này.

9. Giải thích các thuật ngữ sau đây: Sự thích ứng, hậu ảnh, sự chiếu và sự tương phản

CÂU HỎI MỞ RỘNG

1. Tại sao mê đạo tai trong chứa đầy chất lỏng hơn là không khí? Một lý do trực tiếp liên quan đến thính giác, một lý do khác liên quan đến sự sống còn.

2. Công việc mùa hè của Michael ở thị trấn của anh ấy là thu gom rác thải. Lúc đầu, anh nghĩ rác và chiếc xe tải có mùi khủng khiếp, nhưng khi anh ấy về nhà ăn trưa anh ấy đã nghĩ rằng không hề bận tâm chút nào đến mùi đó. Giải thích những gì đã xảy ra, và tại sao mẹ anh lại quan tâm đến mùi này khi cùng ăn với anh ấy.

3. Khi chúng ta ra ngoài trời rất lạnh, tại sao mắt chúng ta không đóng băng? Hãy cố gắng suy nghĩ câu trả lời, có hai lý do.

4. Bạn có thể đã từng xuống nhấn “funny bone” của bạn, mà thực sự là một phần của dây thần kinh trụ đi qua khuỷu tay. Nhấn như vậy rất đau đớn, và không chỉ ở khuỷu tay mà tất cả các đường xuống cẳng tay đến ngón nhẫn và ngón tay út của bàn tay. Điều này được gọi là đau quy chiếu. Giải thích lý do tại sao nó xảy ra, và đặt tên cho đặc tính của cảm giác mà nó minh họa.

5. Bạch tạng (Albinism) là một đặc tính di truyền trong đó melanin không được tạo ra; nó có thể xảy ra trong bất kỳ loại động vật nào. Như bạn có thể biết, một người bạch tạng sẽ có làn da và tóc trắng. Mô tả hậu quả ở mắt của người đó.

6. Đôi khi chúng ta nghe nói rằng người mù có cảm giác nghe tốt hơn là những người có thị lực bình thường. Bạn có nghĩ điều này thực sự đúng không? Giải thích. Kể tên hai cảm giác khác mà một người mù đặc biệt phụ thuộc vào. Giải thích.

7. Xem Câu hỏi Hình 9 – A. Trong phần A, hình chữ nhật nào có vẻ rộng hơn, hình cao hay thấp hơn? Đo lường chúng và giải thích câu trả lời của bạn. Phần B cho thấy một hình khối Necker. Nhìn vào khối lập phương và để cho đôi mắt của bạn thư giãn. Điều gì dường như xảy ra? Tại sao bạn nghĩ rằng điều này sẽ xảy ra? Phần C có một số dòng và một số khối mờ. Nhưng chúng ta thấy gì? Giải thích.

8. Xem Câu hỏi Hình 9 – B. Phần A cho thấy một trường thị giác bình thường. Các phần B, C và D là các vùng thị giác về các rối loạn của mắt mà bạn đã đọc trong chương này. Hãy thử đặt tên cho từng phần, với lý do cho câu trả lời của bạn.

Nguồn: Essentials of Anatomy and Physiology – Vietnamese Version

 

 

 

Giới thiệu My Trieu

Check Also

[Xét nghiệm 59] Hormon tạo hoàng thể (LH)

HORMON TẠO HOÀNG THỂ (LH) (Hormone lutéinisante / Luteinizing Hormone) Nhắc lại sinh lý Hormon …