[Y khoa cơ bản] Chapter 11: Blood

Rate this post

I. MỤC TIÊU HỌC TẬP
■ Mô tả thành phần và giải thích các chức năng của huyết tương
■ Biết tên của các mô tạo máu chính và các loại sản phẩm của tế bào máu.
■ Nêu chức năng của các tế bào hồng cầu, bao gồm cả protein và khoáng chất cần thiết .
■ Biết tên của các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sản xuất hồng cầu, và trạng thái chức năng của mỗi chất.
■ Giải thích làm thế nào tình trạng thiếu oxy có thể thay đổi tỷ lệ sản xuất tế bào hồng cầu.
■ Mô tả những điều gì xảy ra với các tế bào hồng cầu khi đến cuối vòng đời; Điều gì xảy ra với hemoglobin?
■ Giải thích nhóm máu ABO và Rh.
■ Biết tên của 5 loại bạch cầu và mô tả chức năng của từng loại.
■ Cho biết tiểu cầu là gì và giải thích cách chúng liên quan đến cầm máu.
■ Mô tả 3 giai đoạn của quá trình đông máu hóa học
■ Giải thích cách cục máu đông bất thường được ngăn chặn trong hệ thống mạch máu.
■ Nêu các giá trị bình thường trong công thức máu toàn phần.

II. THUẬT NGỮ MỚI
Nhóm ABO (A-B-O GROOP)
Albumin (al-BYOO-min)
Bilirubin (BILL-ee-roo-bin)
Đông máu hóa học (KEM-ikuhl
KLAH-ting)
Sự nghẽn mạch (EM-boh-lizm)
Hồng cầu (e-RITH-roh-sight)
Hemoglobin (HEE-moh-GLOW-bin)
Sự cầm máu (HEE-moh-STAY-sis)
Heparin (HEP-ar-in)
Sự miễn dịch (im-MYOO-ni-tee)
Bạch cầu (LOO-koh-sight)
Đại thực bào (MAK-roh-fahj)
Nguyên hồng cầu (NOR-mohblast)
Hồng cầu lưới(re-TIK-yoo-lohsight)
yếu tố Rh (R-H FAK-ter)
Tiểu cầu (THROM-boh-sight)
Huyết khối (THROM-bus)

III. BỆNH LÂM SÀNG LIÊN QUAN
Thiếu máu (uh-NEE-mee-yah)
Đếm phân biệt (DIFF-er-EN-shul
KOWNT)
Nguyên hồng cầu huyết trẻ sơ
sinh (e-RITH-roh-blass-TOHsis fee-TAL-is)
Hematocrit (hee-MAT-oh-krit)
Hemophilia (HEE-moh-FILL-ee-ah)
Chứng vàng da (JAWN-diss)
Bệnh bạch cầu (loo-KEE-mee-ah)
Chứng tăng bạch cầu (LOO-kohsigh-TOHsis)
RhoGAM (ROH-gam)
Tissue typing (TISH-yoo-TIGHping)
Typing

IV. NỘI DUNG

Một trong những thủ thuật y tế phổ biến và đơn giản nhất là truyền máu. Tuy nhiên,như bạn biết, truyền máu của một cá nhân không phải là luôn tương thích với người khác. Nhóm máu ABO được phát hiện vào đầu những năm 1900 bởi Karl LHsteiner, 1 người Mỹ gốc Australia . Ông cũng đóng góp vào việc khám phá yếu tố Rh năm 1940. Vào năm 1940s, Charles Drew, 1 người Mỹ gốc Phi, phát triển kỹ thuật để chế biến và bảo quản huyết tương, cái mà sau đó có thể được dùng trong truyền máu cho người thuộc bât kỳ nhóm máu nào. Ngày nay khi chúng ta hiến máu , máu của chúng ta có thể được trao cho người nhận như máu nguyên chất, hoặc nó có thể được tách ra thành từng phần cấu thành của nó, và người nhận sẽ chỉ nhận những phần họ cần, chẳng hạn như hồng cầu, huyết tương, yếu tố 8, hoặc tiểu cầu. Mỗi phần có một chức năng cụ thể, và tất cả các chức năng của máu là rất cần thiết cho sự sống của chúng ta. Các chức năng chính của máu là vận chuyển, điều hòa và bảo vệ. Những chất được vận chuyển bằng máu bao gồm chất dinh dưỡng, chất thải, khí và hormone. Máu góp phần vào việc điều chỉnh cân bằng chất lỏng – điện giải, cân bằng acid-base và nhiệt độ cơ thể. Bảo vệ chống lại tác nhân gây bệnh bởi tế bào bạch cầu, và cơ chế đông máu ngăn ngừa mất máu quá mức sau khi bị
thương. Mỗi chức năng được đề cập chi tiết hơn trong chương này.
Đặc điểm của máu
Máu có đặc điểm sinh lý đặc biệt:
Số lượng —một người có 4 đến 6 lít máu, tùy thuộc vào kích thước của họ. Trong tổng thể tích máu của cơ thể con người, 38% đến 48% gồm các tế bào máu khác nhau, còn được gọi là các yếu tố hình thành. Phần còn lại 52% đến 62% thể tích máu là huyết tương, phần lỏng của máu (Hình 11-1). Màu sắc—có thể bạn đang nói với chính mình, “Tất nhiên, nó là màu đỏ!” Tuy nhiên, sự chú ý được tạo nên từ chính sự hiển nhiên này, bởi vì màu sắc có sự khác biệt. Máu động mạch có màu đỏ tươi vì nó chứa hàm lượng oxy cao. Máu tĩnh mạch đã thải ra nhiều oxy trong các mô, và có màu đỏ sẫm. Điều này có thể quan trọng trong việc đánh giá nguồn gốc của chảy máu. Nếu máu có màu đỏ tươi, nó có lẽ là từ một động mạch bị cắt đứt, và máu đỏ sẫm có thể là máu tĩnh mạch. pH—mức pH máu bình thường là 7,35-7,45, đó là hơi kiềm. Máu tĩnh mạch thường có pH thấp hơn một chút so với máu động mạch vì chứa nhiều carbon dioxide hơn. Nhắc lại từ Chương 2 rằng máu chứa các hệ thống đệm, các cặp hóa chất (như axit cacbonic và natri bicarbonate) sẽ phản ứng trong vòng chưa đầy một giây để thay đổi một axit mạnh hoặc bazơ mạnh thành các phân tử không làm thay đổi độ pH của máu.
Độ nhớt — điều này có nghĩa là độ đậm đặc hoặc khả năng ngăn cản dòng chảy. Máu đặc hơn nước từ 3 đến 5 lần. Độ nhớt được tăng lên nhờ sự có mặt của các tế bào máu và protein huyết tương, và độ đậm đặc này góp phần tạo huyết áp bình thường.
Huyết Tương
Huyết tương là phần lỏng của máu và chứa khoảng 91% nước. Khả năng dung môi của nước cho phép huyết tương vận chuyển nhiều loại chất. Các chất dinh dưỡng được hấp thụ ở đường tiêu hóa, chẳng hạn như glucose, axit amin, vitamin và khoáng chất, được tuần hoàn máu đến tất cả các mô của cơ thể. Các chất thải của các mô, chẳng hạn như urê và creatinine, qua thận và được bài tiết qua nước tiểu. Hormon được tạo ra bởi các tuyến nội tiết được mang trong huyết tương đến các cơ quan đích của chúng, và các kháng thể được tạo ra bởi các tế bào lympho cũng được vận chuyển trong huyết tương. Hầu hết cácbon điôxít do các tế bào tạo ra đều được mang trong huyết tương dưới dạng các ion bicarbonate (HCO3–).Khi máu đến phổi, CO2 được tái tạo thành, khuếch tán vào phế nang, và được thở ra Cũng trong huyết tương là các protein huyết tương. Các yếu tố đông máu prothrombin, fibrinogen, và những chất khác được tổng hợp bởi gan và tuần hoàn máu cho đến khi kích hoạt để tạo thành một cục máu đông trong một mạch máu bị vỡ hoặc bị đứt. Albumin là protein huyết tương nhiều nhất. Nó cũng được tổng hợp bởi gan. Albumin góp phần tạo áp lực keo của máu, kéo dịch mô vào các mao mạch. Điều này quan trọng để duy trì thể tích máu và huyết áp bình thường. Loại protein huyết tương khác được gọi là globulin. Alpha và beta globulins được tổng hợp bởi gan và hoạt động như chất mang chất béo. Các globulin gamma (còn gọi là globulin miễn dịch) là các kháng thể được tạo ra bởi các tế bào lympho. Kháng thể được gán cho việc bắt đầu tiêu diệt các tác nhân gây bệnh và cung cấp cho chúng ta khả năng miễn dịch. Huyết tương cũng mang nhiệt độ cơ thể. Nhiệt là một trong những sản phẩm phụ của hô hấp tế bào (sản xuất ATP trong tế bào). Máu trở nên ấm hơn khi nó chảy qua các cơ quan hoạt động như gan và cơ bắp (máu chảy chậm trong mao mạch, vì vậy có thời gian để làm ấm). Nhiệt này được phân phối cho các bộ phận lạnh của cơ thể khi máu tiếp tục lưu thông.
CÁC TẾ BÀO MÁU


Có 3 loại tế bào máu: hồng cầu,bạch cầu và tiểu cầu. Các tế bào máu là sản phẩm từ tế bào gốc của mô sinh máu.Sau khi sinh chủ yếu là tủy xương đỏ, được tìm thấy trong các xương phẳng và xương ngắn như xương ức, xương hông và đốt sống. Lympho bào trưởng thành và phân chia trong mô bạch huyết, tìm thấy trong lách, hạch bạch huyết, và tuyến ức. Tuyến ức chứa các tế bào gốc tạo ra các lympho bào T, và các tế bào gốc trong các mô bạch huyết khác cũng tạo ra các tế bào lympho.
HỒNG CẦU
Còn được gọi là các tế bào máu đỏ,hồng cầu (RBCs) có hình đĩa lõm hai mặt, có nghĩa là trung tâm của nó mỏng hơn các dìa của nó. Bạn có thể nhớ lại từ Chương 3 rằng chỉ có tế bào hồng cầu ở người không có nhân. Hạt nhân của chúng tan rã khi các tế bào hồng cầu trưởng thành và không cần thiết cho hoạt động bình thường. Số lượng hồng cầu bình thường dao động từ 4,5 đến 6,0 triệu tế bào trên mỗi microliter (μL) máu (1 microliter = 1 mm3 = một phần triệu của một lít, một thể tích rất nhỏ). Số lượng hồng cầu của nam giới thường hướng tới mức cao nhất trong phạm vi này; Đối với phụ nữ chỉ số này thường hướng tới mức thấp. Một cách khác để đo lượng hồng cầu là hematocrit. Xét nghiệm này liên quan đến việc hút máu vào một ống thủy tinh mỏng gọi là ống mao dẫn và ly tâm ống để các tế bào lắng xuống đáy ống. Tỷ lệ phần trăm của các tế bào và huyết tương sau đó có thể được xác định. Bởi vì hồng cầu chiếm đa số trong các tế bào máu, mức độ hematocrit bình thường tương tự tổng số tế bào máu: 38% đến 48%. Cả số lượng hồng cầu và hematocrit (Hct) là một phần của số lượng máu toàn phần (CBC).

Chức năng
Các tế bào hồng cầu chứa protein hemoglobin (Hb), thứ giúp hồng cầu có khả năng mang oxy. Mỗi hồng cầu chứa khoảng 300 triệu phân tử hemoglobin, mỗi phân tử có thể liên kết với bốn phân tử oxy (xem Hình 3.B trong Ô 3–2 của Chương 3 về cấu trúc của hemoglobin). Trong các mao mạch phổi, hồng cầu nhận oxy và oxyhemoglobin được hình thành. Máu này tuần hoàn máu từ phổi trở lại tim và sau đó được đưa đến toàn cơ thể. Trong hệ thống mao mạch , hemoglobin thải nhiều oxy và trở thành hemoglobin khử.Việc xác định nồng độ hemoglobin cũng là một phần của CBC; phạm vi bình thường là 12 đến 18 gram trên 100 mL máu. Cần thiết cho sự hình thành hemoglobin là sắt vô cơ; có bốn nguyên tử sắt trong mỗi phân tử hemoglobin. Đó là sắt thực sự liên kết với oxy và cũng làm cho hồng cầu có màu đỏ.Hemoglobin cũng có thể liên kết với carbon dioxide (CO2) và vận chuyển một số CO2 từ các mô đến phổi .Nhưng hemoglobin chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng vận chuyển CO2 (phần lớn được mang trong huyết tương dưới dạng các ion bicarbonate)

Sự sản xuất và trưởng thành

Trong quá trình phát triển phôi thai và bào thai, việc sản xuất hồng cầu có thể được so sánh với một cuộc chạy tiếp sức, với “chiếc gậy” của quá trình sản xuất được truyền từ cơ quan này sang mô khác. Trong phôi thai (8 tuần đầu sau khi thụ tinh) hồng cầu được tạo ra bởi màng ngoài được gọi là túi noãn hoàng (xem hình 21–3 trong Chương 21). Gan của thai nhi sau đó một thời gian, và lá lách của thai nhi cũng đóng góp cho sản xuất hồng cầu sau này trong thai kỳ. Tủy xương đỏ bắt đầu hoạt động trong tháng thứ năm của thai kỳ, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, và ngay sau khi sinh là nơi duy nhất của sự hình thành hồng cầu

 

Ở trẻ lớn và người lớn, các tế bào hồng cầu được hình thành trong tủy xương đỏ (RBM) ở xương dẹt và xương ngắn. Trong tủy xương đỏ là những tế bào tiền  thân được gọi là tế bào gốc. Nhớ lại từ Chương 3 rằng các tế bào gốc là các tế bào không biệt hóa có thể phát triển, hoặc phân biệt, theo nhiều hướng. Các tế bào gốc của tủy xương đỏ cũng có thể được gọi là nguyên bào tạo tế bào máu và chúng liên tục trải qua nguyên phân để tạo ra các tế bào gốc mới và tất cả các loại tế bào máu , đa số trong đó là hồng cầu (Hình 11–2 và 11–3). Tốc độ sản xuất rất nhanh (ước tính khoảng vài triệu hồng cầu mới mỗi giây), và một yếu tố điều tiết chính là oxy. Nếu cơ thể đang trong tình trạng giảm oxy, hoặc thiếu oxy, thận sản sinh ra một loại hooc-môn gọi là erythropoietin, kích thích tủy xương đỏ để tăng tỷ lệ sản xuất hồng cầu (tức là, tỷ lệ giảm phân tế bào gốc). Điều này sẽ xảy ra sau xuất huyết hoặc nếu một người ở vùng cao trong một thời gian. Kết quả hoạt động của erythropoietin, tạo nhiều hồng cầu để mang oxy và điều chỉnh trạng thái thiếu oxy.

Các tế bào gốc sẽ trở thành hồng cầu qua một số giai đoạn phát triển, chỉ có hai trong số đó chúng ta sẽ đề cập đến: nguyên mẫu hồng cầu có nhân kết đặc và hồng cầu lưới (xem hình 11-2). Các nguyên mẫu hồng cầu là giai đoạn cuối cùng còn hạt nhân, mà sau đó tiêu biến. Hemoglobin đã được tạo ra, và các nhiễm sắc thể với mã ADN cho hemoglobin không còn cần thiết nữa. Các tế bào hồng cầu lưới có các mảnh của lưới nội chất (cũng không còn cần thiết), mà có thể nhìn thấy lốm đốm tím khi lam kính máu được nhuộm màu để đánh giá vi mô. Những tế bào chưa trưởng thành này thường được tìm thấy trong tủy xương đỏ, mặc dù một số lượng nhỏ các tế bào hồng cầu lưới trong tuần hoàn ngoại vi được coi là bình thường (lên đến 1,5% tổng số hồng cầu). Số lượng lớn hồng cầu lưới hoặc nguyên mẫu hồng cầu trong máu tuần hoàn có nghĩa là số lượng hồng cầu trưởng thành không đủ để mang oxy cầnthiết cho cơ thể. Tình huống như vậy bao gồm xuất huyết,hoặc khi hồng cầu trưởng thành bị phá hủy, như trong bệnh Rh của trẻ sơ sinh và sốt rét.
Sự trưởng thành của các tế bào máu đỏ đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng. Protein và sắt là cần thiết cho sự tổng hợp hemoglobin và trở thành một phần của các phân tử hemoglobin. Đồng là một phần của một số enzym tham gia vào quá trình tổng hợp hemoglobin, mặc dù nó không trở thành một phần của hemoglobin (nếu có, nó sẽ làm cho máu có màu xanh dương, giống như cua móng ngựa). Các vitamin, acid folic và B12 cần để tổng hợp DNA trong các tế bào gốc của tủy xương đỏ. Khi các tế bào này trải qua quá trình phân bào, chúng phải liên tục tạo ra các bộ nhiễm sắc thể mới. Vitamin B12 chứa khoáng chất coban và cũng được gọi là yếu tố bên ngoài bởi vì nguồn gốc của nó ở bên ngoài,lấy từ thực phẩm. Các tế bào thành của niêm mạc dạ dày tạo ra yếu tố nội, một hóa chất kết hợp với vitamin B12 trong thực phẩm để ngăn cản sự tiêu hóa và thúc đẩy sự hấp thụ của nó trong ruột non. Sự thiếu hụt vitamin B12 hoặc yếu tố nội dẫn đến thiếu máu ác tính (xem Ô 11–1: Thiếu máu).

Tuổi thọ


Các tế bào hồng cầu sống trong khoảng 120 ngày. Khi nó đạt đến độ tuổi này,nó trở nên dễ vỡ; màng của nó bắt đầu tan rã. Các tế bào bị hư hỏng này được loại bỏ khỏi tuần hoàn bởi hệ thống đại thực bào (trước đây gọi là hệ thống lưới nội mô hoặc hệ thống RE). Các cơ quan có chứa đại thực bào (nghĩa đen là “kẻ ăn to”) là gan, lá lách và tủy xương đỏ. Xem hình 11– 4 khi bạn đọc phần sau. Các hồng cầu cũ bị thực bào và tiêu hóa bởi đại thực bào, và sắt của nó được đưa vào máu để trả lại cho tủy xương đỏ được sử dụng để tổng hợp hemoglobin mới. Nếu mục đích này chưa cần thiết ngay lập tức, sắt dư thừa được lưu trữ trong gan. Sắt của hồng cầu được thực sự tái chế lại nhiều lần. Phần globin hoặc protein của phân tử hemoglobin cũng được tái chế. Nó được phân giải để tạo các axit amin của nó, sau đó có thể được sử dụng để tổng hợp các protein mới.Một phần khác của phân tử hemoglobin là phần heme, không thể tái chế và là một sản phẩm chất thải. Heme được chuyển đổi thành bilirubin bởi các đại thực bào.

Gan loại bỏ bilirubin khỏi tuần hoàn và bài tiết nó vào mật; bilirubin là một sắc tố mật. Mật được tiết ra bởi gan vào tá tràng và đi qua ruột non và đại tràng, vì vậy bilirubin được loại bỏ trong phân và làm cho phân màu nâu đặc trưng của nó. Trong đại tràng một ít bilirubin được thay đổi thành urobilinogen bởi vi khuẩn đại tràng Một số urobilinogen có thể được hấp thu vào máu,
nhưng nó được thay đổi thành urobilin và bài tiết qua thận trong nước tiểu. Nếu bilirubin không được bài tiết đúng cách, có thể do bệnh gan như viêm gan, khiến nó vẫn còn trong máu. Điều này có thể gây vàng da, một điều kiện trong đó đôi mắt của người da trắng xuất hiện màu vàng. Màu vàng này cũng có thể được nhận thấy trên da của những người da sáng (xem Ô 11– 2: Vàng da)

Nhóm máu


Nhóm máu của chúng ta được di truyền; đó là, chúng ta kế thừa các gen từ cha mẹ để xác định nhóm máu của chúng ta . Có nhiều yếu tố hoặc loại tế bào hồng cầu; chúng ta sẽ thảo luận hai yếu tố quan trọng nhất: nhóm ABO và yếu tố Rh. (Di truyền của các nhóm máu được thảo luận trong Chương 21.) Nhóm máu ABO bao gồm 4 nhóm máu: A, B, AB, và O. Các chữ cái A và B đại diện cho kháng nguyên (protein-oligosaccharides) trên màng tế bào hồng cầu. Một người nhóm máu A có kháng nguyên A trên hồng cầu, và một người nhóm máu B có kháng nguyên B. Nhóm máu AB có nghĩa là cả hai kháng nguyên A và B đều có mặt và loại O có nghĩa là không có kháng nguyên A và B.
Trong huyết tương của mỗi người là các kháng thể tự nhiên đối với những kháng nguyên không có trên các hồng cầu. Do đó, nhóm máu A có kháng thể kháng B trong huyết tương; một người nhóm máu B có kháng thể kháng A; nhóm máu AB không có kháng thể A hoặc kháng thể B; và một người nhóm O có cả kháng thể kháng A và kháng B (xem Bảng 11–1 và Hình 11– 5).

Tại sao chúng ta có những kháng thể tự nhiên mà không hề hay biết (chúng bắt đầu được hình thành vài tháng sau khi sinh), nhưng chúng ta biết rằng chúng có tầm quan trọng lớn đối với truyền máu. Nếu có thể, một người sẽ nhận được máu của người cùng nhóm máu với mình; chỉ khi nhóm máu này không có sẵn, thì được nhận nhóm máu O- . Ví dụ, chúng ta hãy nói rằng người có nhóm máu A cần truyền máu để thay thế máu bị mất trong xuất huyết. Nếu người này nhận nhóm máu B, điều gì sẽ xảy ra? Người nhận nhóm máu A có kháng thể kháng B sẽ liên kết với kháng nguyên loại B trên hồng cầu của máu hiến tặng. Các kháng nguyên B trên hồng cầu sẽ lần đầu tiên ngưng kết (kết tụ) sau đó vỡ (tan máu), do đó mục đích truyền máu thất bại. Một hệ quả thậm chí còn nghiêm trọng hơn là hemoglobin của các hồng cầu bị vỡ, giờ được gọi là hemoglobin tự do, có thể làm tắc nghẽn các mao mạch của thận và dẫn đến tổn thương thận hoặc suy thận. Bạn có thể thấy lý do tại sao sự xác định nhóm máu và phản ứng chéo giữa máu người cho và người nhận trong phòng thí nghiệm bệnh viện là rất quan trọng trước khi truyền máu (xem hình 11–5). Quy trình này giúp đảm bảo rằng máu hiến tặng sẽ không mang lại phản ứng truyền máu tan máu ở người nhận.
Bạn có thể đã nghe về khái niệm rằng một người có nhóm máu O là một “nhóm máu chuyên cho.” Thông thường, một đơn vị máu loại O- có thể được trao cho những người thuộc nhóm máu bất kì. Điều này là do hồng cầu nhóm máu O không có kháng nguyên A hoặc B và sẽ không phản ứng với bất cứ kháng thể người nhận có thể có

Nếu chỉ có một đơn vị (1 pint) máu được truyền, kháng thể anti- A và anti-B trong huyết tương loại O sẽ được pha loãng trong huyết tương của người nhận và sẽ không có ảnh hưởng có hại đến hồng cầu của người nhận. Thuật ngữ âm, trong O-, nhóm máu chuyên cho, đề cập đến yếu tố Rh, yếu tố mà bây giờ chúng ta sẽ xem xét.

Yếu tố Rh là một kháng nguyên khác (thường gọi là D)có lẽ ở trên hồng cầu. Những người hồng cầu có kháng nguyên Rh là Rh+; những người không có kháng nguyên là Rh-. Người có Rh- không có kháng thể tự nhiên với kháng nguyên Rh, và đối với nó ,kháng nguyên này là ngoại lai.Nếu một người Rh- nhận máu Rh+ do nhầm lẫn, các kháng thể sẽ được hình thành giống như chúng là vi khuẩn hoặc vi-rút. Truyền máu nhầm lần đầu không gây ra vấn đề bởi vì sự sản xuất kháng thể chậm ,sự tiếp xúc đầu tiên với hồng cầu Rh+ , và những hồng cầu này có tuổi thọ tương đối ngắn. Lần truyền máu thứ 2, khi kháng thể anti Rh đã có mặt sẵn sẽ gây phản ứng truyền máu, với tan máu và tổn thương thận có thể xảy ra (xem thêm Ô 11–3:bệnh Rh của trẻ sơ sinh).

BẠCH CẦU
Tế bào máu trắng (WBCs) thường được gọi là bạch cầu. Có 5 lọai bạch cầu; tất cả đều có kích thước lớn hơn hồng cầu và có nhân khi trưởng thành.Nhân có thể là 1 mảnh hoặc xuất hiện như một số thùy hoặc đoạn. Nhuộm đặc biệt để kiểm tra bằng kính hiển vi cho mỗi loại bạch cầu có hình dạng đặc biệt (xem Hình 11–2 và 11–3). Số lượng bạch cầu bình thường (một phần của CBC) là 5.000 đến 10.000 trên mỗi μL. Lưu ý rằng con số này khá nhỏ so với số lượng hồng cầu bình thường. Nhiều bạch cầu không lưu thông trong các mạch máu nhưng đang thực hiện chức năng của chúng trong dịch mô hoặc trong mô bạch huyết.

Phân loại
Có 5 loại tế bào bạch cầu, tất cả được sản xuất trong tủy xương đỏ (và một số tế bào lympho trong mô bạch huyết), có thể được phân loại thành hai nhóm: dạng hạt và dạng không hạt. Các bạch cầu hạt là bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid, và bạch cầu ưa base , thường có hạt nhân hai hoặc nhiều thùy hoặc phân đoạn và hạt có màu sắc rõ ràng khi nhuộm màu. Bạch cầu trung tính có hạt màu xanh nhạt, bạch cầu ưa acid có hạt đỏ, và bạch cầu ưa base có hạt màu xanh đậm. Các tế bào bạch cầu không hạt là bạch cầu lympho và bạch cầu mono, có hạt nhân trong một mảnh. Bạch cầu mono thường lớn hơn một chút so với bạch cầu lympho. Số lượng bạch cầu có sự khác biệt (một phần của CBC) là tỷ lệ phần trăm của mỗi loại bạch cầu. Các khoảng thông thường được liệt kê trong Bảng 11–2, cùng với các giá trị bình thường khác của CBC.
Chức năng

Các tế bào bạch cầu đều đóng góp vào cùng một chức năng chung, đó là để bảo vệ cơ thể khỏi bệnh truyền nhiễm và cung cấp khả năng miễn dịch cho một số bệnh nhất định. Mỗi loại bạch cầu đóng góp rất quan trọng trong sự ổn định nội mô.

Bạch cầu trung tính và bạch cầu mono có khả năng gây bệnh thực bào. Bạch cầu trung tính thực bào phong phú hơn, nhưng các bạch cầu mono thực bào hiệu quả hơn, bởi vì chúng phân biệt thành đại thực bào, mà cũng làm thực bào mô chết hoặc hư hỏng tại chỗ của chấn thương bất kì, giúp sửa chữa mô. Bạch cầu mono cũng góp phần sửa chữa mô. Trong quá trình nhiễm trùng, bạch cầu trung tính được tạo ra nhanh hơn, và các hình thái chưa trưởng thành, được gọi là các tế bào band (xem hình 11–2), có thể xuất hiện với số lượng lớn hơn trong tuần hoàn ngoại biên. Thuật ngữ “band” đề cập đến hạt nhân chưa được phân đoạn và có thể trông giống như một quả tạ.

Bạch cầu ưa acid được cho là giải độc protein ngọai lai và sẽ thực bào bất cứ thứ gì gắn nhãn với kháng thể.Bạch cầu ưa acid trở nên dồi dào hơn trong các phản ứng dị ứng và nhiễm trùng ký sinh như bệnh giun xoắn (do ký sinh trùng gây ra). Bạch cầu ưa base chứa các hạt heparin và histamin. Heparin là một chất chống đông giúp ngăn ngừa sự đông máu bất thường trong mạch máu. Histamine, bạn có thể nhớ lại, được giải phóng như là một phần của quá trình viêm, và nó làm cho mao mạch thấm hơn, cho phép dịch mô, protein, và các bạch cầu tích lũy trong khu vực bị hư hại.

Có hai loại tế bào lympho chính, tế bào T và tế bào B, và một loại thứ ba ít hơn được gọi là tế bào diệt tự nhiên NK. Bây giờ chúng ta sẽ nói rằng các tế bào T (hoặc tế bào lympho T) giúp nhận diện các kháng nguyên ngoại lai và có thể trực tiếp tiêu diệt một số kháng nguyên ngoại lai. Tế bào B (hoặc tế bào lympho B) trở thành tương bào tạo ra kháng thể chống kháng nguyên ngoại lai. Cả tế bào T và tế bào B đều cung cấp ghi nhớ cho bệnh. Các tế bào T và tế bào B ghi nhớ do vắc-xin hoặc phục hồi từ một căn bệnh có thể cung cấp khả năng miễn dịch cho các trường hợp trong tương lai của bệnh đó. Các tế bào diệt tự nhiên NK (tế bào NK) phá hủy các tế bào ngoại lai bằng cách hóa học phá vỡ màng của chúng. Các chức năng này của tế bào lympho được thảo luận trong cơ chế miễn dịch ở Chương 14.

Như đã đề cập trước đó, bạch cầu hoạt động trong dịch mô và máu. Nhiều bạch cầu có khả năng tự vận động (chuyển động kiểu amip) và có thể ép giữa các tế bào của vách mao mạch và ra ngoài vào các khoảng kẽ. Đại thực bào cung cấp một ví dụ điển hình về các vị trí kép của bạch cầu. Một số đại thực bào “cố định”, có nghĩa là, cố định trong các cơ quan như gan, lá lách và tủy xương đỏ (một phần của đại thực bào hoặc hệ thống RE – cùng các đại thực bào thực bào hồng cầu) và trong các hạch bạch huyết. Chúng thực bào các mầm bệnh lưu thông trong máu hoặc bạch huyết qua các cơ quan này. Các đại thực bào “lang thang” khác di chuyển trong dịch mô, đặc biệt là trong mô liên kết phân cực của màng nhầy và dưới da. Tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể thông qua các lỗ tự nhiên hoặc thông qua các vết rách trên da thường bị phá hủy bởi các đại thực bào và các bạch cầu khác trong mô liên kết trước khi chúng có thể gây bệnh nghiêm trọng. Ví dụ, phế nang của phổi có các đại thực bào tiêu diệt rất hiệu quả các mầm bệnh xâm nhập từ không khí hít vào.

Số lượng bạch cầu cao, gọi là tăng bạch cầu, thì thường là dấu hiệu của nhiễm trùng. Giảm bạch cầu là số lượng bạch cầu thấp, hiện tượng có thể xuất hiện ở giai đoạn sớm của bệnh như là bệnh lao. Tiếp xúc với bức xạ hoặc chất hóa học như benzen có thể phá hủy bạch cầu và làm giảm tổng số lượng bạch cầu. Một người như vậy thì rất dễ bị nhiễm trùng. Bệnh bạch cầu, mô tạo bạch cầu ác tính, được thảo luận trong ô 11-4: Bệnh bạch cầu.

Các loại tế bào bạch cầu (tương tự như các loại hồng cầu như nhóm ABO) được gọi là kháng nguyên bạch cầu người (HLA). Những loại tế bào này được tạo ra bởi các protein màng tế bào là một đặc tính di truyền. Các gen cho các kháng nguyên này được gọi chung là phức hợp tương hợp mô(MHC) và có trên nhiễm sắc thể số 6. Mục đích của kháng nguyên được thảo luận trong Ô 11–5: Các loại tế bào bạch cầu: HLA.

TIỂU CẦU
Tên chính thức hơn đối với tiểu cầu là mảnh tiểu cầu,không phải là toàn bộ tế bào mà là các mảnh vỡ hoặc các mảnh tế bào. Một số tế bào gốc trong tủy xương đỏ biệt hóa thành tế bào lớn gọi là mẫu tiểu cầu (xem Hình 11–2 và 11–3), cái mà phân chia thành những mảnh nhỏ đi vào tuần hoàn máu. Những mảnh nhỏ, hình bầu dục, mảnh trong tuần hoàn là tiểu cầu, có thể kéo dài từ 5 đến 9 ngày, nếu không được sử dụng trước đó. Thrombopoietin là một nội tiết tố được sản xuất bởi gan gây tăng tỷ lệ sản xuất tiểu cầu.
Số lượng tiểu cầu bình thường (1 phần của CBC) là 150,000 đến 300,000/μL (đỉnh của phạm vi có thể lên tới 500,000). Giảm tiểu cầu là thuật ngữ cho số lượng tiểu cầu thấp.


Chức năngTiểu cầu là cần thiết cho đông máu, có nghĩa là phòng ngừa mất máu. Đối với các mạch máu nguyên vẹn, tiểu cầu giúp duy trì các liên kết giữa các tế bào biểu mô liền kề hình thành các mao mạch và mạch lớn hơn (nội mô). Không có tiểu cầu, giống như dây kéo glycoprotein được gọi là cadherin có xu hướng tách rời nhau, các tế bào biểu mô tách biệt, và các hồng cầu và sự rò rỉ huyết tương dư thừa. Nếu mạch máu vỡ hoặc bị cắt, ba cơ chế giúp giảm thiểu mất máu và tiểu cầu có liên quan đến nhau. Hai trong số các cơ chế này được thể hiện trong hình 11–6.

1. Co thắt mạch máu – khi một mạch máu lớn như động mạch hoặc tĩnh mạch bị cắt đứt, cơ trơn trong thành của nó co lại theo phản ứng với tổn thương (gọi là đáp ứng tạo mô cơ). Tiểu cầu trong khu vực bị rách tiết ra serotonin , gây ra sự co mạch. Đường kính của mạch được co nhỏ hơn, và miệng vết thương mở nhỏ hơn có thể bị bịt kín bởi cục máu đông. Nếu mạch máu không co, cục máu đông hình thành sẽ nhanh chóng bị cuốn trôi do áp lực của huyết áp.

2. Nút tiểu cầu — khi mao mạch bị vỡ, tổn thương quá nhỏ để bắt đầu hình thành cục máu đông. Tuy nhiên, bề mặt thô ráp làm cho tiểu cầu thay đổi hình dạng (trở nên có gai) và trở nên dính. Những tiểu cầu hoạt hóa này dính vào các cạnh của vết rách và dính với nhau. Các tiểu cầu tạo thành một rào chắn cơ học hoặc vách để hàn kín trong mao mạch. Mao mạch vỡ khá thường xuyên, và các nút tiểu cầu , mặc dù nhỏ, là tất cả những gì cần thiết để niêm phong chúng.Nút tiểu cầu có hiệu quả cho vết rách trong các mạch lớn hơn không? Không, chúng quá nhỏ, và mặc dù chúng hình thành, chúng bị cuốn trôi (cho đến khi cục máu đông bắt đầu hình thành có thể chứa chúng). Co thắt mạch máu có hiệu quả đối với mao mạch không? Một lần nữa, câu trả lời là không, bởi vì mao mạch không có cơ trơn và không thể co thắt

3. Đông máu hóa học—Các kích thích cho đông máu là một bề mặt thô ráp trong mạch máu, hoặc rách bên trong mạch máu, điều mà cũng tạo ra một bề= mặt thô ráp. Càng có nhiều tổn thương, sự đông máu nhanh bắt đầu hơn , thường trong vòng 15 đến 120 giây.
Cơ chế đông máu là một loạt các phản ứng liên quan đến các hóa chất thường lưu thông trong máu và những phản ứng khác được giải phóng khi một mạch bị tổn thương.
Các hóa chất liên quan đến đông máu bao gồm các yếu tố tiểu cầu, hóa chất do các mô bị tổn thương, các ion canxi và prothrombin protein huyết tương, fibrinogen, yếu tố 8, và các chất khác được gan tổng hợp. Vitamin K cần thiết cho gan tổng hợp prothrombin và một số yếu tố đông máu khác (các yếu tố 7, 9 và 10). Hầu hết vitamin K của chúng ta được sản xuất bởi vi sinh vật đường ruột, vi khuẩn sống trong đại tràng; vitamin được hấp thu khi đại tràng hấp thụ nước và có thể được lưu trữ trong gan.
Hóa chất đông máu thường được mô tả theo ba giai đoạn, được liệt kê trong Bảng 11-3 và minh họa trong hình 11–7. Giai đoạn 1 bắt đầu khi một mạch máu bị cắt hoặc tổn thương bên trong và bao gồm tất cả các yếu tố được hiển thị. Khi bạn đi theo con đường, hãy chú ý rằng sản phẩm của giai đoạn 1 là chất hoạt hóa prothrombin, cũng có thể được gọi là prothrombinase. Mỗi tên đều cho chúng ta biết điều gì đó. Tên đầu tiên gợi ý rằng hóa chất này kích hoạt prothrombin, và đó là sự thật. Tên thứ hai kết thúc bằng “ase”, chỉ ra rằng đây là một loại enzyme. Các tên truyền thống cho các enzym sử dụng chất nền của enzyme như phần đầu tiên của tên, và thêm “ase”. Vì vậy, hóa chất này phải là một enzyme có chất nền là prothrombin, và điều đó đúng. Các giai đoạn của đông máu có thể được gọi là một thác, nơi mà một dẫn đến tiếp theo,không thể tránh khỏi khi nước chảy xuống . Chất hoạt hóa prothrombin , sản phẩm của giai đoạn 1, mang lại phản ứng của giai đoạn 2: chuyển prothrombin thành thrombin. Sản phẩm của giai đoạn 2, thrombin, mang lại phản ứng của giai đoạn 3: chuyển fibrinogen thành fibrin (xem ô 11–6: Hemophilia).
Bản thân cục máu đông được làm bằng fibrin, sản phẩm của giai đoạn 3. Fibrin là 1 protein giống như sợi. Các sợi của fibrin tạo thành lưới mà bẫy hồng cầu và tiểu cầu và tạo thành 1 bức tường băng qua thành mạch rách .
Một khi cục máu đông được hình thành thì máu ngừng chảy,co cục máu đông và sự phân hủy fibrin xảy ra.Co cục máu đông cần tiểu cầu,ATP và yếu tố 13 và bao gồm sự sắp xếp của sợi fibrin để kéo thành mạch bị thương lại gần với nhau.Điều này sẽ giúp chỗ được sửa chữa nhỏ hơn. Tiểu cầu góp phần theo cách khác bởi vì Các tiểu cầu đóng góp theo một cách khác bởi vì khi chúng tan rã, chúng giải phóng tiểu cầu-chuyển hóa yếu tố tăng trưởng (PDGF), thứ kích thích nguyên phân trong sửa chữa mạch máu.Quá trình sửa chữa bắt đầu, cục máu đông bị phá hủy,một quá trình được gọi là sự phân hủy fibrin. Cục máu đông bị phân hủy rất quan trọng bởi vì nó là 1 bề mặt thô ,và nếu nó ở trong mạch nó sẽ kích thích nhiều sự đông máu không cần thiết,điều có thể cản trở lưu lượng máu.

Ngăn chặn sự đông máu bất thường

Đông máu nên diễn ra để ngừng chảy máu,nhưng cầm máu quá nhiều sẽ gây cản trở mạch máu và gây trở ngại với sự tuần hoàn máu bình thường

Cục máu đông không thường xuyên tạo thành bên trong mạch máu bởi vì endothelium (lớp lót biểu mô vảy đơn) rất mịn và đẩy lùi tiểu cầu và yếu tố đông máu. Nếu lớp lót trở nên thô ráp, như xảy ra với các cặn lipid của xơ vữa động mạch,1 cục máu đông sẽ hình thành.

Heparin, được sản xuất bởi basophils, là một chất chống đông tự nhiên ức chế quá trình đông máu (mặc dù heparin được gọi là “chất làm loãng máu”, nó không “loãng” hoặc pha loãng máu theo bất kỳ cách nào, thay vào đó nó ngăn cản phản ứng hóa học xảy ra). Gan sản xuất một globulin được gọi là anti-thrombin, thứ kết hợp cùng và bất hoạt thrombin dư thừa. Thrombin dư thừa sẽ kích hoạt feedback dương tính hiệu quả trên thác đông máu và dẫn đến phân chia prothrombin thành thrombin nhiều hơn,đông máu nhiều hơn,hình thành nhiều thrombin hơn và tiếp tục. Antithrombin giúp ngăn chặn điều này, như fibrin trong cục máu đông, hấp thụ thrombin dư thừa và trả lại ở dạng bất hoạt. Tất cả các yếu tố này là chiếc phanh ngoài cho cơ chế feedback  dương tính .Cùng nhau chúng thường xuyên giớii hạn fibrin hình thành cái mà cần để tạo 1 cục máu đông hữu dụng nhưng không là 1 cục máu đông gây cản trở

Huyết khối đề cập đến đông máu bên trong mạch; bản thân cục máu đông được gọi là một cục máu đông. Ví dụ như huyết khối mạch vành là sự đông máu bất thường trong động mạch vành, điều này sẽ làm giảm lượng cung cấp máu (oxy) cho một phần cơ tim. Thuyên tắc là một cục máu đông hoặc các mô khác được vận chuyển từ những nơi khác mà lọt vào và cản trở một mạch máu (xem Ô 11–7: Phân hủy và Ngăn ngừa cục máu đông).

Advertisement

 

V. TÓM LƯỢC
Tất cả chức năng của máu được mô tả trong chương này- vận chuyển,điều hòa và bảo vệ- góp phần vào cân bằng nội môi của cơ thể nói chung. Tuy nhiên, các chứng năng này không thể thực hiện nếu máu không lưu thông đúng cách. Tuần hoàn máu . Sự tuần hoàn máu trong các mạch máu phụ thuộc vào chức năng hoạt động của tim, bơm của hệ thống tuần hoàn, là chủ đề của chương tiếp theo của chúng ta.

VI. ĐỀ CƯƠNG HỌC TẬP

Các chức năng chung của máu là vận chuyển, điều hòa và bảo vệ.
Đặc trưng về máu
1. Số lượng—4 đến 6 lít ; 38% đến 48% là các tế bào; 52% đến 62% là huyết tương (H. 11–1).
2. Màu sắc—máu động mạch có hàm lượng oxy cao và màu đỏ tươi; máu tĩnh mạch nghèo oxy và màu đỏ thẫm
3. pH—7.35 đến 7.45; máu tĩnh mạch có nhiều CO2 Hhơn và pH thấp hơn máu động mạch ; hệ thống đệm giúp cân bằng pH bình thường.
4. Độ nhớt – độ đặc hoặc khả năng cản trở dòng chảy; do sự hiện diện của các tế bào và protein huyết tương; góp phần tạo huyết áp bình thường.
Huyết tương- phần lỏng của máu
1. 91% là nước
2. Huyết tương vận chuyển chất dinh dưỡng,chất thải, các hormon,nhiệt,kháng thể và CO2 như HCO3 –.
3. Protein huyết tương : đa số là sản phẩm của gan
a. Các yếu tố đông máu(prothrombin, fibrinogen,và các yếu tố khác) được tổng hợp bởi gan.
b. Albumin được tổng hợp bởi gan và tạo áp suất keo kéo dịch mô vào mao mạch để duy trì thể tích máu và huyết áp bình thường. .

c. Alpha và beta globulins được tổng hợp bởi gan và là chất vận chuyển chất béo và các chất khác trong máu
d. Gamma globulins (immunoglobulins) là kháng thể được sản xuất bởi bạch cầu lympho
Các tế bào máu
1. Các thành phần gồm hồng cầu,bạch cầu và tiểu cầu.(H. 11–2 và 11–3).
2. Sau khi sinh, mô tạo máu chính là tủy xương đỏ, có chứa tế bào gốc. Bạch cầu lympho trưởng thành và phân chia trong các mô bạch huyết của lá lách, hạch bạch huyết, và tuyến ức, mà cũng có tế bào gốc cho bạch cầu lympho.
Tế bào máu đỏ—hồng cầu (xem bảng 11–2 cho giá trị bình thường)
1. Đĩa lõm; không nhân khi trưởng thành
2. Hồng cầu mang O2 liên kết với sắt trong hemoglobin; oxyhemoglobin được tạo ở mao mạch phổi; oxy được thoát ra trong các hệ thống mao mạch .
3. Trước khi sinh, các hồng cầu được hình thành bởi túi phôi thai và sau đó là gan, lách và RBM của thai nhi
4. Sau khi sinh, các hồng cầu được hình thành trong RBM từ nguyên bào máu (tế bào gốc, các= tế bào tiền thân).
5. Thiếu oxy kích thích thận tạo ra hormone erythropoietin, gây tăng các tỷ lệ sản xuất hồng cầu (nguyên phân tế bào gốc) ở RBM
6. Hồng cầu chưa trưởng thành: nguyên hồng cầu (có hạt nhân) và hồng cầu lưới;số lượng lớn trong lưu thông ngoại vi cho thấy cần thêm nhiều hồng cầu để mang oxy

7. Vitamin B12 chứa coban và được gọi là yếu tố bên ngoài, cần thiết cho tổng hợp DNA (nguyên phân) trong các tế bào gốc trong RBM. Yếu tố bên trong được sản xuất bởi các tế bào thành của niêm mạc dạ dày; nó kết hợp với B12 để ngăn chặn sự tự tiêu hóa nó và thúc đẩy sự hấp thu của trong ruột non.
8. Hồng cầu sống được 120 ngày và sau đó bị thực bào bởi các đại thực bào ở gan, lá lách và RBM (xem Hình 11–4).
a. Sắt trở lại RBM hoặc lưu trữ trong gan
b. Hem của hemoglobin được chuyển thành bilirubin, thứ gan bài tiết vào mật để loại bỏ trong phân.
c. Trực khuẩn đường ruột chuyển bilirubin thành urobilinogen.
d. Urobilinogen bất kì hấp thu được chuyển thành urobilin và bài tiết vào nước tiểu bởi thận
e. Vàng da là sự tích tụ bilirubin trong máu, có lẽ là kết quả của bệnh gan.
9. Nhóm máu ABO có tính di truyền.
a. Nhóm này được biểu thị bởi kháng nguyên trên các hồng cầu (xem Bảng 11–1 và Hình 11–5).
b. Kháng thể trong huyết tương là đối với kháng nguyên đó không xuất hiện trên hồng cầu và là cân nhắc quan trọng trong truyền máu
10. Nhóm máu Rh cũng có tính di truyền.
a. Rh + có nghĩa là có kháng nguyên D trên hồng cầu .
b. Rh – có nghĩa là không có kháng nguyên D trên hồng cầu.
c. Rh- người không có kháng thể tự nhiên nhưng sẽ sản xuất chúng nếu gặp nhóm mảu Rh +

Tế bào máu màu trắng—bạch cầu (xem Bảng 11–2 cho giá trị bình thường)
1. Lớn hơn hồng cầu; có nhân khi trưởng thành;được sản xuất bởi tủy xương đỏ,ngoại trừ một số bạch cầu lympho được sản xuất ở tuyến ức hoặc mô bạch huyết khác (H. 11–2 và 11–3).
2. Bạch cầu hạt là bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid,bạch cầu ưa base.
3. Bạch cầu không hạt là bạch cầu lympho và bạch cầu mono.
4. Các bạch cầu trung tính và bạch cầu mono thực bào mầm bệnh; bạch cầu mono trở thành đại thực bào, thực bào mô chết.
5. Bạch cầu ưa acid giải độc protein ngoại lai trong phản ứng di ứng và nhiễm kí sinh trùng; chúng thực bào bất kì thứ gì được gắn nhãn với kháng thể .
6. Bạch cầu ưa base bao gồm chất chống đông heparin và histamin ,thứ làm mạch máu dễ thấm hơn trong quá trình viêm.
7. Bạch cầu lympho: Tế bào T, tế bào B và tế bào diệt tự nhiên NK.
a. Tế bào T nhận diện kháng nguyên ngoại lai và tiêu diệt chúng và cung cấp trí nhớ về mầm bệnh, từ đó cung cấp khả năng miễn dịch.
b. Tế bào B trở thành tương bào, thứ sản xuất kháng thể cho kháng nguyên ngoại lai và cũng cung cấp trí nhớ về miễn dịch.
c. NK cells Tế bào NK phá hủy màng tế bào của tế bào ngoại lai.
8. Bạch cầu thực hiện chức năng của chúng trong dịch mô và mô bạch huyết, cũng như trong máu.
Tiểu cầu(xem Bảng 11–2 cho giá trị bình
thường)
1. Tiểu cầu được hình thành trong RBM và là những mảnh của mẫu tiểu cầu; hormon thrombopoietin từ gan giúp tăng sản xuất tiểu cầu.

2. Tiểu cầu giúp duy trì nội mô của các mạch máu và tham gia vào tất cả các cơ chế cầm máu (phòng ngừa mất máu) (Hình 11–6).
3. Co mạch máu – các mạch lớn co lại khi bị tổn thương, phản ứng trương lực cơ. Tiểu cầu giải phóng serotonin, cũng gây co thắt mạch. Vết rách mạch máu được nhỏ lại và có thể được bít kín bởi cục máu đông .
4. Cục máu đông – mao mạch vỡ tạo thành bề mặt thô ráp khiến tiểu cầu dính và tạo thành hàng rào cho vết thương.
5. Đông máu hóa học bao gồm yếu tố tiểu cầu, chất hóa học từ mô tổn thương, prothrombin, fibrinogen và các yếu tố đông máu được tổng hợp ở gan, ion Ca2+. Vitamin K từ từ hệ vi khuẩn đường ruột là cần thiết để tổng hợp một số yếu tố đông máu.
Xem Bảng 11– 3 và H. 11–7 về 3 giai đoạn của
đông máu hóa học.
a. Giai đoạn 1: Chất hoạt hóa Prothrombin được tạo thành.
b. Giai đoạn 2: Chất hoạt hóa Prothrombin chuyển prothrombin thành thrombin.
c. Giai đoạn 3: Thrombin tách fibrinogen thành fibrin. Cục máu đông được tạo từ sợi fibrin cái mà tạo thành lưới trên vết thương ở mạch máu.
6. Sự co rút cục máu đông được gấp các sợi fibrin để kéo mép của vết thương lại gần với nhau để sửa chữa. Sự phân hủy fibrin là phân giải cục máu đông sau khi chúng đã thực hiện xong mục đích.
7. Đông máu bất thường(thombosis)được ngăn chặn bởi niêm mạc nội mô mịn (biểu mô vảy đơn) ở lòng mạch; heparin, chất ức chế đông máu ;và antithrombin (được tổng hợp bởi gan), làm bất hoạt thrombin dư thừa.

VII. CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Biết tên của 4 loại chất được vận chuyển trong huyết tương. (tr. 284)
2. Biết tên các tế bào tiền thân của các tế bào máu.Tên của mô tạo máu nguyên thủy và nêu rõ vị trí của nó. (tr. 286)
3. Nêu rõ giá trị bình thường (CBC) về hồng cầu,bạch cầu,tiểu cầu, hemoglobin, và hematocrit. (tr. 294)
4. Nêu rõ chức năng của hồng cầu; bao gồm protein và khoáng chất cần thiết. (tr. 286)
5. Giải thích tại sao sắt, protein, acid folic, vitamin B12, và yếu tố nội cần cho sản xuất hồng cầu .(tr. 288)
6. Giải thích bilirubin được hình thành và bài tiết như thế nào.(tr. 290–291)
7. Giải thích điều gì sẽ xảy ra nếu một người nhóm máu O+ nhận truyền máu nhóm A-. (tr. 293)
8. Tên của mỗi loại bạch cầu theo chức năng: (tr. 295)
a. Trở thành đại thực bào và thực bào mô chết
b. Sản xuất kháng thể
c. Giải độc protein ngoại lai
d. Thực bào mầm bệnh
e. Chứa chất chống đông heparin
f. Nhận diện kháng nguyên ngoại lai
g. Bài tiết histamin trong sự viêm
9. Giải thích như thế nào và tại sao nút tiểu cầu hình thành trong mao mạch bị vỡ (tr. 297)
10. Mô tả điều gì sẽ xảy ra trong co mạch máu và giải thích nó ngăn chặn sự mất máu như thế nào khi mạch lớn bị tổn thương. (tr. 297)
11. Cùng chú ý tới cơ chế đông máu hóa học : (tr. 297, 300)
a. Biết tên của các khoáng chất cần thiết
b. Biết tên của cơ quan sản xuất các yếu tố đông máu.
c. Biết tên của vitamin cần thiết cho sự tổng hợp prothrombin.
d. Nêu rõ cục máu đông được làm bằng gì.
12. Giải thích ý nghĩa của phản ứng đông máu , sự phân hủy fibrin và tại sao chúng quan trọng. (tr. 300)
13. Nêu rõ 2 con đường đông máu bất thường được ngăn chặntrong hệ thống mạch máu (tr. 300)
14. Giải thích ý nghĩa độ nhớt của máu, yếu tố góp phần và tại sao độ nhớt của máu lại quan trọng. (tr. 284)
15. Nêu rõ độ pH bình thường của máu . Khí nào ảnh hưởng đến độ pH máu.(tr.284)
16. Định nghĩa thiếu máu,tăng bạch cầu và giảm tiểu cầu.(tr.289,295)

Nguồn: Essentials of Anatomy and Physiology – Vietnamese Version.

Giới thiệu Ma Kim Phung

Check Also

[Xét nghiệm 59] Hormon tạo hoàng thể (LH)

HORMON TẠO HOÀNG THỂ (LH) (Hormone lutéinisante / Luteinizing Hormone) Nhắc lại sinh lý Hormon …