[VYPO] Lịch sử bi thảm của bệnh AIDS trong cộng đồng bệnh nhân ưa chảy máu 1982–1984

Rate this post

Lịch sử bi thảm của bệnh AIDS trong cộng đồng bệnh nhân ưa chảy máu 1982–1984

(Bệnh ưa chảy máu còn gọi là bệnh máu khó đông hay hemophilia)
Nguồn:   Bs. Phan Trúc
Chúng ta thường được dạy trong trường Y rằng, vì ngành y liên quan đến mạng sống con người, các em không được phép sai lầm. Tuy vậy, lịch sử y học không vận hành theo cách đó. Nếu chúng ta ý thức được điều đó là sai lầm, có lẽ chúng ta đã không thực hiện trên bệnh nhân. Tôi thuộc trường phái “ôn cố tri tân”. Đọc về lịch sử y học, tôi cảm nhận được nhiều thứ với tôi là vô giá. Câu chuyện dưới đây, là một bài học được kể bởi GS. B.L. Evatt, của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC, Hoa kỳ) về tấn bi kịch mà nhiều bệnh nhân hemophilia(hemophilia) đã chịu đựng trong thế kỷ trước khi đại dịch AIDS xuất hiện, cuộc đại dịch đã gây chia rẽ sâu sắc giữa những nhà khoa học, chính phủ và người dân. Tôi đã tóm lượt câu chuyện để mọi người dễ theo dõi vì tôi cho rằng bạn đọc sẽ rút ra rất nhiều thứ quý giá ở câu chuyện này, về cách thức con người đã tìm kiếm ra AIDS cũng như sự gian khổ như thế nào để đưa một chân lý được cộng đồng thừa nhận, và những đau thương mà y học còn phải tiếp tục chiến đấu vì sự tồn vong của nhân loại.
Bản đầy đủ tài liệu tham khảo, tôi đính kèm trong file pdf bên dưới.
Thời kỳ đen tối của bệnh nhân hemophilia
Trong suốt 4 thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cuộc sống của những bệnh nhân mắc bệnh máu khó đông rất khốn khổ. Thường tàn tật trước 20 tuổi, tuổi thọ trung bình là 27 vì tử vong sớm, thường do xuất huyết vào các cơ quan quan trọng [1].
Tia hy vọng cho bệnh nhân…
Do những cải tiến truyền máu được thực hiện trong Thế chiến II [2–3], bệnh nhân hemophilia có thể được truyền máu toàn phần hoặc huyết tương tươi đông lạnh có chứa yếu tố đông máu bị thiếu. Kết quả là, tuổi thọ của một bệnh nhân hemophilia nặng đạt 39,7 tuổi vào năm 1960, nhưng hậu quả của tình trạng chảy máu nhiều lần khiến một tỷ lệ đáng kể bị tàn tật và thất nghiệp. Sự phát triển tiếp theo vào những năm 1960 đã cho phép lưu trữ một dạng cô đặc của yếu tố đông máu VIII (FVIII), yếu tố bị thiếu trong bệnh hemophilia A [4–6]. Các yếu tố đông khô làm tăng ngay yếu tố đông máu còn thiếu lên mức bình thường, có thể mang theo bệnh nhân trong các chuyến đi và có thể tự quản lý.
Chế phẩm huyết tương trở thành hot trend thời bấy giờ
Cả bệnh nhân và bác sĩ đều coi yếu tố đông máu cô đặc là giải pháp cuối cùng cho bệnh máu khó đông. Các chương trình chăm sóc tại nhà ngày càng phát triển và các trung tâm điều trị bệnh hemophilia toàn diện (HTC) được phát triển [7-9]. Bệnh nhân tham gia HTC được cải thiện đáng kể về chăm sóc y tế và chất lượng cuộc sống tốt hơn khi sự phụ thuộc vào cộng đồng y tế giảm xuống. Tỷ lệ tử vong giảm đáng kể, mức độ việc làm tăng lên, thời gian nghỉ học và làm việc giảm đi đáng kể do số lần nhập viện và các biến chứng của bệnh hemophilia giảm [10-11]. Tuổi thọ đạt 60 vào năm 1980, gần bằng tuổi thọ của nam giới bình thường.
Bi kịch bắt đầu từ…
Từ đó, nhu cầu huyết tương tăng lên đáng kể, và nhu cầu về số lượng thay vì chất lượng đã thúc đẩy ngành công nghiệp plasma. Huyết tương thường được lấy từ những người hiến tặng được trả tiền có nguy cơ cao mắc các bệnh lây truyền qua đường máu (những người cực kỳ nghèo, tù nhân, nghiện rượu, v.v.) [2]. Kết quả là, yếu tố đông máu cô đặc, bắt nguồn từ pool (trộn) của 20.000 người hiến, với việc sàng lọc và xét nghiệm tác nhân lây nhiễm không đầy đủ, hầu hết bệnh nhân bị nhiễm viêm gan siêu vi [12–13]. Xét đến chất lượng cuộc sống được nâng cao và tăng tuổi thọ, tỷ lệ lây nhiễm cao này được bệnh nhân, bác sĩ, ngành công nghiệp và chính phủ coi là rủi ro có thể chấp nhận được; công nghệ bất hoạt virus không được theo đuổi mạnh mẽ.
Đại dịch bắt đầu
Chính trong bối cảnh này, một căn bệnh lây truyền qua đường máu mới, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), xuất hiện ở Châu Phi, lan vào vùng Caribê, Hoa Kỳ và các nước đã phát triển.
Lần đầu tiên xuất hiện trong cộng đồng đồng tính luyến ái ở Hoa Kỳ vào cuối năm 1980, căn bệnh này sở hữu những đặc tính bất thường mà ban đầu che khuất nó như một bệnh truyền nhiễm riêng biệt. Những nạn nhân khỏe mạnh trước đây không có triệu chứng cụ thể nhưng bị nhiễm trùng thứ phát hoặc các khối u liên quan đến suy giảm miễn dịch [Viêm phổi do Pneumocystis carinii (PCP) hoặc Kaposi’s sarcoma] [14,15]. Thời gian ủ bệnh lâu nên khó nhận biết lây truyền từ người sang người. Các phương pháp xét nghiệm cần thiết để nuôi cấy và xác định tác nhân gây bệnh còn thiếu. Các nhà khoa học tập trung vào các nguyên nhân không lây nhiễm, chẳng hạn như kháng thể đối với tinh trùng hoặc phản ứng của hệ thống miễn dịch với các hóa chất như hít phải amyl nitrit mà người đồng tính sử dụng để duy trì cương dương kéo dài [16,17].
Quá trình điều tra bắt đầu thay đổi vào năm 1982. Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) đã chỉ đạo Phòng Các yếu tố vật chủ, cơ quan chịu trách nhiệm điều tra các loại thuốc mới, một trong số đó là pentamidine, loại thuốc được sử dụng để điều trị PCP phổ biến ở bệnh nhân AIDS. Các nhà dịch tễ học tại CDC đã nghiên cứu về chứng rối loạn mới ở nam giới đồng tính luyến ái.
Đầu năm 1982, CDC nhận được một cuộc gọi báo cáo một bệnh nhân mắc hemophilia, được điều trị bằng FVIII cô đặc, đã chết vì PCP. Người bác sĩ lý giải rằng yếu tố đông máu đã bị nhiễm P. carinii và truyền trực tiếp cho bệnh nhân. Tuy nhiên, quy trình sản xuất sẽ loại bỏ vi khuẩn P. carinii bị nhiễm, và sự hiếm gặp của PCP trong bệnh hemophilia cho thấy khả năng bệnh nhân đã mắc phải hội chứng tương tự ảnh hưởng đến người đồng tính. Sau khi điều tra, tác giả xác định rằng hồ sơ lâm sàng của bệnh nhân phù hợp với chứng rối loạn mới.
Gần như đồng thời, CDC nhận được báo cáo về tình trạng rối loạn miễn dịch tương tự ở bệnh nhân người Haiti và người tiêm chích ma tuý. Trong khi quan hệ qua đường hậu môn hoặc sử dụng amyl nitrit (các lý thuyết phổ biến liên quan đến nguyên nhân của bệnh ở người đồng tính luyến ái) không phải là thực hành phổ biến ở bệnh nhân hemophilia, người Haiti hoặc những người tiêm chích ma túy, tác giả lý luận rằng bốn nhóm này có rất ít điểm chung ngoại trừ một điểm, nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường máu.
CDC bắt đầu theo đuổi mạnh mẽ khả năng hội chứng mới là do qua đường máu. Họ đã yêu cầu xem xét các trường hợp dùng pentamidine, để tìm kiếm các bệnh nhân hemophilia bị PCP có liên quan đến dùng pentamidine không? Không trường hợp nào được ghi nhận. Một cuộc tìm kiếm kỹ lưỡng trên các tạp chí khoa học chỉ xác định được một bệnh nhân hemophilia đã phát triển PCP sau khi tiêm ACTH liều cao một thập kỷ trước đó. Các cuộc gọi cho Tiến sĩ David Aronson tại FDA cũng xác nhận rằng cơ quan đó không nhận được báo cáo trước nào về các trường hợp PCP ở bệnh hemophilia trong các báo cáo phản ứng có hại do thuốc thường quy.
Tháng 6 và 7 năm 1982 trở thành những tháng then chốt trong suy nghĩ của CDC về bệnh AIDS. Trong tuần thứ hai của tháng Sáu, Trung tâm Y tế Đại học Colorado, Denver, đã yêu cầu sử dụng pentamidine cho một bệnh nhân mắc hemophilia. TS. Dale Lawrence được cử đến để tiến hành điều tra hiện trường. Ông xác nhận rằng bệnh nhân có một quá trình lâm sàng tương thích với AIDS, loại trừ khả năng bệnh nhân là thành viên của ba nhóm nguy cơ đã biết, và thông báo cho Trung tâm Y tế rằng bệnh nhân có cùng một hội chứng ảnh hưởng đến dân số đồng tính [16].
Vào 2/7/1982, một yêu cầu về pentamidine đã được nhận cho một bệnh nhân hemophilia thứ ba bị nhiễm PCP ở Ohio. Điều tra xác nhận sự hiện diện của rối loạn miễn dịch.
Bây giờ CDC đã thuyết phục một cách hợp lý rằng bệnh nhân hemophilia là một nhóm nguy cơ khác của AIDS. CDC đã soạn thảo một lá thư để cảnh báo tất cả các giám đốc HTC. Giám đốc điều hành của Quỹ Hemophilia Quốc gia (NHF) đã được thông báo về những tác động.
CDC đã xuất bản một bài Báo cáo Bệnh tật và Tử vong hàng tuần (MMWR) báo cáo ba bệnh nhân và đề xuất nguy cơ lây truyền qua đường máu là một nguyên nhân của AIDS [18].
Vào 7/1982, CDC cho rằng đã đến lúc chuyển các cuộc điều tra của Hoa Kỳ sang một căn bệnh lây truyền qua đường máu và đường tình dục là nguyên nhân của bệnh AIDS [19]. Các thành viên của ngành ngân hàng máu và huyết tương, các nhóm bệnh nhân bị ảnh hưởng, các tổ chức chuyên môn huyết học và các cơ quan chính phủ cần được thông báo ngắn gọn và nỗ lực đạt được quan điểm đồng thuận, và lý tưởng nhất là đồng tình về hành động phòng ngừa, chẳng hạn như loại bỏ những người hiến máu thuộc nhóm nguy cơ cao.
Tuy nhiên, những hành động này không thể dễ dàng đạt được. Mặc dù ý nghĩa của việc tìm ra hội chứng trong bốn nhóm nguy cơ cung cấp một gợi ý mạnh mẽ về khả năng mắc bệnh lây truyền qua đường máu, nhưng không có bằng chứng trực tiếp nào cho thấy hội chứng lây nhiễm hoặc lây truyền qua đường máu. Không có tác nhân nào được tìm thấy và không có thử nghiệm nào để sàng lọc những người có khả năng bị nhiễm bệnh.
Đối mặt
Vào ngày 27/7/1982, đại diện của CDC đã gặp một nhóm các nhà lãnh đạo từ ngành công nghiệp máu, các bệnh nhân hemophilia, các tổ chức cộng đồng đồng tính, và đại diện của NIH và FDA, để trình bày bằng chứng về khả năng lây truyền bởi một tác nhân qua đường máu [18] . Nếu những người tham dự chấp nhận khả năng này, CDC lập luận rằng các nhóm nguy cơ cao nên bị cấm hiến máu cho đến khi vấn đề có thể được làm rõ bởi các nghiên cứu trong tương lai.
Đó là một ngày dài. Lịch sử chi tiết của các trường hợp bệnh hemophilia được trình bày một cách có hệ thống [12,20]. Chỉ có nguy cơ cao đối với các bệnh lây nhiễm qua đường máu mới có thể giải thích được nguy cơ chung cho cả bốn nhóm. Tuy nhiên, thay vì bày tỏ sự báo động về khả năng lây nhiễm qua đường máu và đề xuất các cách để giảm nguy cơ lây nhiễm qua đường máu, những người tham dự bày tỏ sự miễn cưỡng hầu như không muốn hành động. Cộng đồng khoa học vẫn chưa thấy bằng chứng được công bố cho thấy hội chứng này thực sự là một bệnh truyền nhiễm, chưa nói đến lây truyền qua đường máu và đường tình dục. Người đồng tính là những người hiến máu lớn ở các thành phố lớn ở bờ biển phía đông và phía tây. Người ta cho rằng việc chọn ra những người đồng tính để loại trừ sẽ khiến họ bị kỳ thị một cách không cần thiết mà không có bằng chứng cho thấy họ thực sự đang truyền bệnh. Ngành công nghiệp máu, bị đe dọa vì mất nguồn hiến máu lớn, ủng hộ mạnh mẽ lập trường của các nhóm đồng tính về vấn đề này; ba bệnh nhân hemophilia mắc hội chứng không có nghĩa là họ nên chi hàng triệu đô la để thay đổi phương thức tuyển dụng và sàng lọc. Các nhóm bệnh hemophilia thì bày tỏ lo ngại rằng dữ liệu cho thấy sự ức chế miễn dịch ở bệnh nhân máu khó đông có thể phản ánh tác động của việc sử dụng các sản phẩm máu kéo dài và không nhất thiết có nghĩa là họ mắc hội chứng mới. Họ cũng lo sợ bị kỳ thị khi mắc bệnh liên quan đến bệnh nhân đồng tính và lo ngại rằng việc giảm sử dụng các yếu tố đông máu cô đặc sẽ kéo theo các vấn đề cũ về dị tật và tử vong sớm, số phận của những bệnh nhân mắc bệnh máu khó đông trước khi điều trị tập trung. FDA, cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành công nghiệp máu, vẫn chưa chấp nhận việc thu thập các rối loạn liên quan đến suy giảm miễn dịch như một bệnh đơn lẻ, và cũng nghi ngờ rằng bệnh nhân hemophilia đại diện cho một nhóm nguy cơ khác. Do đó, không đạt được sự đồng thuận nào liên quan đến những người hiến máu.
Tuy nhiên, hai bước quan trọng đã được hoàn thành. Tên chính thức của căn bệnh này, AIDS, đã được thành lập. Cái tên mới đã tạo điều kiện cho việc mở rộng các cuộc điều tra vượt ra ngoài phạm vi chỉ về vấn đề đồng tính. Ngoài ra, CDC được khuyến khích tiếp tục các nghiên cứu về bệnh nhân hemophilia [20]
Vào mùa thu năm 1982, CDC đã xác định được thêm 4 trường hợp nữa và 1 trường hợp có khả năng mắc bệnh AIDS ở bệnh nhân ưa chảy máu, 2 trong số đó là trẻ em. Ngoài ra, họ đã điều tra và xác định bệnh AIDS ở một số cá nhân đã được truyền máu. Với lý do bảo mật thông tin người hiến máu, một số ngân hàng máu đã cản trở nghiêm trọng việc điều tra bằng cách từ chối chia sẻ danh sách người hiến máu của những người đã cho máu những người nhận mà sau đó phát triển thành AIDS. Họ sợ rằng chúng tôi sẽ cảnh báo quá mức hoặc khiến các người cho lúng túng trước những câu hỏi về tình dục, do đó không đi hiến máu. Nếu không liên kết việc hiến máu của bệnh nhân AIDS với người nhận máu thì không thể cho thấy sự lây truyền. Ngoài ra, bệnh nhân được truyền máu thường được truyền máu cho các bệnh tiềm ẩn khác (như là phẫu thuật ung thư), những tình trạng có thể là nguồn suy giảm miễn dịch thứ phát. Khi những trường hợp này tích lũy, CDC thường xuyên cung cấp thông tin cho ngành công nghiệp máu, FDA và NIH của các chuyên gia ngân hàng máu, những người dường như chỉ yêu cầu thêm bệnh nhân và bằng chứng, mà không đưa ra khuyến nghị về những thay đổi trong chính sách máu [2,12]. CDC ngày càng thất vọng và mất kiên nhẫn.
Cuối cùng, vào tháng 12 năm 1982, CDC đã xác định được một trường hợp truyền máu rõ ràng, một trẻ sơ sinh 20 tháng tuổi bị AIDS sau nhiều lần truyền, bao gồm truyền tiểu cầu lấy từ máu của một nam giới sau đó bị phát hiện mắc bệnh AIDS. Bây giờ CDC tin rằng mặc dù không có tác nhân xác định, nhưng mẫu bằng chứng dịch tễ học vẫn đủ để liên quan đến một bệnh lây truyền qua đường máu [21,22]. Bằng chứng này không thể bị bỏ qua nữa; theo quan điểm của CDC, những thay đổi khẩn cấp trong chính sách về máu là cần thiết để giảm nguy cơ.
Dịch bệnh lây truyền qua đường máu được xác định
Theo sự thúc giục của CDC, Trợ lý Bộ trưởng Y tế, TS. Edward Brandt Jr, đã triệu tập một ủy ban cố vấn để giải quyết các câu hỏi liên quan đến căn bệnh này vào ngày 4/1/1983 tại Atlanta [23]. Những người tham dự cuộc họp bao gồm mọi nhóm quan tâm đến dịch bệnh:
Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ (ARC), Hiệp hội Ngân hàng Máu Hoa Kỳ (AABB), NHF, Lực lượng Đặc nhiệm Người đồng tính Quốc gia, Hiệp hội Các nhà sản xuất Dược phẩm, Hội đồng các Trung tâm Máu Cộng đồng, Các nhà dịch tễ học của Bang và Vùng lãnh thổ, NIH và FDA. Tham dự còn có các cá nhân (bệnh nhân, bác sĩ, giới truyền thông) với các người quan tâm khác.
Thật không may, ngày này có thể trở thành ngày đáng buồn và bực bội nhất đối với nhân viên CDC. Thay vì thảo luận hợp lý về dữ liệu, cuộc họp nhanh chóng trở thành một diễn đàn để thúc đẩy các chương trình nghị sự cá nhân và bảo vệ sân cỏ. Trước sự chứng kiến ​​của (và có lẽ là phản ứng lại) các phóng viên tin tức và máy quay TV, mỗi nhóm đều lên tiếng về cơ bản cùng một lý do hoài nghi mà họ đã có trong cuộc họp trước đó vào tháng 7/1982. Vào dịp này, một số người ít lịch sự hơn, đôi khi tấn công dữ liệu CDC là không đầy đủ và quá mức đã nêu. Các tổ chức ngân hàng máu đặc biệt mạnh mẽ vẫn tuân thủ triết lý rằng truyền máu là một thủ tục cứu sống; một số phản ứng bất lợi có thể chấp nhận được để cứu một mạng sống. Một rối loạn hiếm gặp chỉ ảnh hưởng đến tám bệnh nhân hemophilia và một bệnh nhân truyền máu nên không buộc phải thay đổi chính sách về máu [24]. Những người tham dự coi dữ liệu chỉ là bằng chứng giai thoại, không có giá trị.
Tất cả những người tham dự đều đánh giá thấp tỷ lệ mắc bệnh vốn đã cao trong dân số vì AIDS đã bị che khuất bởi một thời gian ủ bệnh dài, vẫn chưa được xác định. Dữ liệu của CDC về tần suất cao của các rối loạn miễn dịch ảnh hưởng đến quần thể hemophilia, giống với dữ liệu được tìm thấy ở bệnh nhân đồng tính luyến ái mắc hội chứng liên quan đến nổi hạch. Trên hết, các tổ chức ngân hàng máu vẫn không tin rằng CDC đã cho thấy tình trạng này là một bệnh lây truyền qua đường máu và một số quan chức FDA vẫn không tin rằng AIDS thực sự là một căn bệnh khác biệt. TS. Koplan đã đề xuất một loạt các khuyến nghị đồng thuận vào cuối ngày và tất cả đều bị đánh bại [12].
Các tổ chức ngân hàng máu rõ ràng không hài lòng với sự thật là CDC xâm phạm vào các khu vực được FDA điều phối. Thái độ này được phản ánh trong một bản ghi nhớ của một quan chức cấp cao của ARC cho biết: Từ lâu, người ta đã lưu ý rằng CDC ngày càng cần một trận dịch lớn để biện minh cho sự tồn tại của nó… Nói tóm lại, chúng ta không thể phụ thuộc vào CDC để cung cấp các thông tin khoa học, khách quan, không thiên vị … [25]. Hai ngày sau cuộc họp tháng Giêng tại Atlanta, các tổ chức ngân hàng máu, AABB, ARC và Hội đồng Ngân hàng Máu Cộng đồng, đã họp tại Washington, DC, để thành lập Lực lượng Đặc nhiệm chống lại bệnh AIDS và vào ngày 13 tháng 1 đã ra một tuyên bố chung phản đối việc sàng lọc người hiến tặng bằng các câu hỏi liên quan đến sở thích tình dục [26]
Nhiều người tại CDC đã rất thất vọng trước kết quả của cuộc họp vào ngày 4/1. Không có khuyến nghị nào được đưa ra từ các nhóm có mặt tại cuộc họp (ngoại trừ NHF), cho thấy rằng họ sẽ rất vui nếu CDC không tham gia vào cuộc điều tra lây truyền máu. Tuy nhiên, CDC quyết định nâng cao tầm nhìn của lý thuyết về sự truyền máu bằng cách đề xuất Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ (PHS) đưa ra một số khuyến nghị chính thức liên quan đến AIDS về hiến máu. Họ đã soạn thảo một bộ hướng dẫn để Trợ lý Bộ trưởng Y tế và các cơ quan dịch vụ y tế công cộng khác xem xét, do đó bỏ qua cơ quan quản lý của FDA. Hành động này rõ ràng là một sự vi phạm giao thức trong đó trách nhiệm đối với các hướng dẫn đó thuộc về FDA, nhưng CDC lý luận rằng nó đáng phải chịu rủi ro bị chỉ trích nặng nề để đưa vấn đề khỏi vị trí cuối cùng. Dự thảo này bao gồm việc loại trừ các nhóm người hiến có nguy cơ cao và tiến hành xét nghiệm sàng lọc người cho. Dự thảo này đã bị các cơ quan khác bác bỏ ngay lập tức, nhưng sau những sửa đổi thích hợp, FDA, CDC và NIH đã đồng ý về một bộ hướng dẫn được PHS công bố vào ngày 4 tháng 3 năm 1983. Đến thời điểm này đã xác định được 12 bệnh nhân mắc hemophilia và 6 trường hợp có thể đã truyền máu. Việc xuất bản các hướng dẫn này đánh dấu sự khởi đầu của sự thay đổi chậm chạp trong chính sách công về AIDS liên quan đến truyền máu.
Advertisement
Cũng trong tháng 3 năm 1983, Hyland Therapeutics của Baxter Healthcare đã cấp phép cho một dạng FVIII đông khô được đun nóng, và bán trên thị trường như một sản phẩm (với giá thành tăng đáng kể) có tác dụng giảm nguy cơ mắc bệnh viêm gan B [12]. Thật không may, các nghiên cứu lâm sàng đã sớm chứng minh rằng nguy cơ viêm gan không được loại bỏ và bệnh nhân và bác sĩ coi quá trình này là không hiệu quả. Các bác sĩ cũng lo lắng rằng việc đun nóng FVIII sẽ tạo ra các biến đổi kháng nguyên đối với phân tử FVIII và làm tăng tỷ lệ các chất ức chế, mặc dù không có dữ liệu nào chứng minh cho nỗi sợ hãi này. Vì giá thành cao và sợ rủi ro nên sản phẩm không đạt được sự sử dụng rộng rãi. Ngay sau đó, ba nhà sản xuất khác của Hoa Kỳ về chất cô đặc yếu tố đông máu là Cutter Biological, Armor Pharmaceutical và Alpha Therapeutics, đã cấp phép cho các sản phẩm tương tự khi số ca bệnh AIDS mắc bệnh hemophilia tiếp tục tăng [12]. Vào mùa hè, AIDS xuất hiện ở những bệnh nhân thiếu FIX, thậm chí nghi ngờ về AIDS là một bệnh lây truyền qua đường máu vẫn tồn tại trong một số bộ phận của cộng đồng bệnh nhân hemophilia, ngành ngân hàng máu, bác sĩ và nhân viên FDA [28,29]. Vào cuối tháng 8/1983, 26 bệnh nhân mắc bệnh máu khó đông và 26 người được truyền máu đã được chẩn đoán mắc bệnh AIDS [12].
Đại dịch kết thúc đột ngột ở cộng đồng bệnh nhân ưa chảy máu
Vào giữa năm 1983, các nhà khoa học tại Viện Pasteur ở Paris đã phân lập được một loại vi rút từ những bệnh nhân mắc hội chứng liên quan đến nổi hạch [30]. Vào tháng 2 năm 1984, Viện Pasteur, sử dụng các mẫu CDC thu được từ TS. Don Francis, trình bày dữ liệu tại CDC chứng minh rõ ràng rằng vi rút của họ, LAV, được tìm thấy ở bệnh nhân AIDS nhưng không trùng với nhóm chứng nào đã có [31]. TS. Jean-Claude Chermann của Viện đã cung cấp cho CDC các mẫu virus LAV vào tháng 2 năm 1984.
TS. Steve McDougal tại phòng thí nghiệm miễn dịch học của CDC đã phát triển một thử nghiệm để định lượng vi rút trong nhiều mẫu khác nhau vào mùa xuân năm 1984 [32]. Tác giả đã thảo luận với TS. McDougal về nhu cầu cấp thiết xác định xem liệu vi rút có nhạy cảm với nhiệt hay không. Các nhà sản xuất yêu cầu phương pháp sản xuất độc quyền quan trọng liên quan đến quá trình gia nhiệt. Behringwerke AG, một công ty châu Âu sử dụng phương pháp làm nóng yếu tố đông khô để khử trùng, đã từ chối vì tính chất độc quyền thông tin của họ, nhưng các chi tiết về quy trình của họ được lấy từ văn phòng cấp bằng sáng chế của Hoa Kỳ. TS. Peter Levine, Giám đốc NHF đã thu thập thông tin chi tiết về các quy trình được các công ty Hoa Kỳ sử dụng cho CDC. Vi rút được nuôi trong phòng thí nghiệm, trộn với dịch cô đặc đã hoàn nguyên, sau đó các mẫu được đun nóng trong nhiều thời gian và nhiệt độ khác nhau ở trạng thái lỏng (phương pháp Behringwerke) hoặc đông khô và đun nóng (phương pháp Hoa Kỳ) và xác định số lượng vi rút còn lại. Vi rút LAV dễ dàng bị tiêu diệt khi tiếp xúc với nhiệt trong thời gian ngắn.
Ba tuần sau, tác giả trình bày kết quả của những thí nghiệm này trong Bản cập nhật về bệnh Hemophilia tại Đại hội Liên đoàn Hemophilia Thế giới vào tháng 8 năm 1984 ở Rio De Janeiro, Brazil. Thay vì ngay lập tức đề xuất yếu tố đông máu được xử lý nhiệt, các bác sĩ và nhà khoa học vẫn lo ngại hơn về nguy cơ hình thành chất ức chế và muốn xem dữ liệu thu được từ các quá trình sản xuất thực tế. Ông Brownstein đã sắp xếp một cuộc họp lúc ăn trưa trong thời gian diễn ra Đại hội Rio với đại diện của bốn nhà sản xuất Hoa Kỳ và chính ông. Hai trong số các nhà sản xuất, Cutter Biological và Alpha Therapeutics, đã đồng ý làm việc với CDC để thực hiện các thí nghiệm cuối cùng.
Trong tháng 9 năm 1984, chất cô đặc được gửi đến CDC từ Cutter (và sau đó là Alpha), trộn với một lượng lớn vi rút, và đưa trở lại nhà sản xuất để đông khô và gia nhiệt (đối chứng được đông khô nhưng không được làm nóng). Xử lý hoàn tất và các đối chứng sau đó được trả lại cho CDC để định lượng vi rút. Không có vi rút nào được phát hiện trong các mẫu gia nhiệt [33–34].
Ngay sau khi hoàn thành các thử nghiệm này, một cuộc họp khẩn cấp gồm các thành viên chủ chốt của MASAC đã được kêu gọi để xem xét và soạn thảo hướng dẫn để xem xét tại cuộc họp vào tháng 10 năm 1984. Tại cuộc họp, một thiểu số nhỏ nhưng có tiếng nói vẫn phản đối mạnh mẽ khuyến nghị, trên cơ sở chi phí cao và không có các thử nghiệm lâm sàng chứng minh tính an toàn khỏi AIDS. Những tiếng nói này đã bị bác bỏ, nhưng từ ngữ của khuyến nghị sử dụng yếu tố xử lý nhiệt đã được pha loãng để phù hợp với thiểu số [35]. Các phần mạnh hơn của khuyến nghị và kết quả thí nghiệm gia nhiệt đã được công bố trên MMWR vào tháng 10 năm 1984 [33]. Cộng đồng hemophilia trên thế giới đã nhanh chóng áp dụng khuyến nghị của MASAC, do đó vào đầu năm 1985, yếu tố VIII đông khô không gia nhiệt đã ít được sử dụng ở mọi nơi. Đại dịch AIDS ở những bệnh nhân hemophilia vì thế đã dứt hẳn. Các nghiên cứu đoàn hệ sau đó đã chứng minh rằng không có bệnh nhân hemophilia nào sinh từ năm 1985 trở về sau ở Hoa Kỳ, bị nhiễm LAV, sau này được đổi tên thành HIV [36]. Đáng buồn thay, trong giai đoạn 1981-1984, hơn 50% bệnh nhân hemophilia ở Hoa Kỳ đã bị nhiễm bệnh và những người này sẽ tiếp tục xuất hiện các triệu chứng lâm sàng của AIDS trong suốt thập kỷ tới và nhiều người sẽ tử vong [37,38].

Giới thiệu dangthuy

Check Also

[Nghiên cứu] Súc rửa đường ruột có tốt không?

Câu hỏi này cũng tương tự như “Ăn uống có tốt cho sức khoẻ không?” …