Theo dõi liên tục glucose (Continuous glucose monitoring – CGM) có thể mang lại lợi ích cho nhóm bệnh nhân đái thái đường típ 2 rộng hơn nhiều so với những người chỉ mới được khuyến cáo hay biết đến nó, nghiên cứu mới đây cho thấy điều này.
Dữ liệu đến từ hai nghiên cứu, cả hai đều được công bố trực tuyến vào ngày 2 tháng 6 trên tạp chí JAMA.
Ở nghiên cứu thứ nhất là một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, cho thấy rằng CGM dẫn đến sự cải thiện đáng kể A1c trong 8 tháng ở người lớn mắc đái tháo đường típ 2 sử dụng insulin tác dụng kéo dài đơn độc mà không có phối hợp thêm insulin trước ăn. Nghiên cứu cũng sẽ được trình bày trong Hội nghị Quốc tế lần thứ 14 Công nghệ và Điều trị tiên tiến cho bệnh nhân đái tháo đường.
Hiện nay, sử dụng CGM chỉ được khuyến cáo mạnh cho bệnh nhân đái tháo đường típ 2 sử dụng phác đồ kết hợp insulin nền và insulin trước ăn.
“Cho đến bây giờ, chúng tôi không chắc chắn về lợi ích của CGM cho những bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có phác đồ insulin nền ít phức tạp hơn”, tác giả chính của nghiên cứu Thomas Martens, MD của Trung tâm đái tháo đường Quốc tế tại Minnesota cho biết trong một thông cáo báo chí.
Những dữ liệu này mở rộng “số lượng người có thể hưởng lợi ích từ phương pháp này, cũng như chỉ ra một tương lai có thể là CGM sẽ trở nên phổ biến trong các phòng khám chăm sóc sức khoẻ hàng đầu trên khắp nước Mỹ.”
Những dữ liệu khác đến từ một nghiên cứu hồi cứu loạt bệnh trong một hệ thống phân phối chăm sóc sức khoẻ lớn tại California, những bệnh nhân được điều trị insulin với bệnh đái tháo đường típ 1 hoặc típ 2 được chọn bởi những bác sĩ điều trị chính cho thời gian CGM thực sự. Những người mắc đái tháo đường típ 2 trải qua sự giảm A1c tốt hơn so với những người mắc đái tháo đường típ 1 được thực hiện CGM.
Ý nghĩa với những chăm sóc ban đầu và phạm vi bảo hiểm
Những phát hiện từ cả 2 nghiên cứu đều có ý nghĩa quan trọng về mặt lâm sàng và chính sách chăm sóc sức khoẻ, Monica E. Peek, MD và Celeste C. Thomas, MD, cả hai đều thuộc Đại học Chicago, Illinois, viết trong một bài xã luận đính kèm.
Đầu tiên, họ lưu ý rằng những thử nghiệm ngẫu nhiên được tiến hành ở những người thường không biết đến CGM. Họ đa phần không phải là người da trắng, trình độ giáo dục thấp, và không có bảo hiểm y tế tư nhân.
Hơn nữa, nghiên cứu được thực hiện tại các cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu phối hợp với các bác sĩ nội tiết, một mô hình mà các nhà nghiên cứu nói rằng có thể được thực hiện tại các cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đặc biệt là chăm sóc sức khoẻ từ xa.
Peek và Thomas cũng nói rằng việc phát hiện sự giảm đáng kể A1c ở bệnh nhân có phác đồ insulin liều chưa cao cho thấy sự cần thiết của việc xem xét lại những thủ tục phiền toái của Medicare rằng bệnh nhân sử dụng nhiều mũi tiêm hàng ngày và phải thực hiện ít nhất 4 lần xét nghiệm đường máu mao mạch ngón tay trong một ngày để đủ điều kiện được bảo hiểm chi trả cho CGM.
“Những thay đổi chính sách quan trọng trong điều kiện Medicare đối với CGM dành cho bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và những thay đổi để thúc đẩy sử dụng nó cho những trung tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu sẽ phải trải qua một chặng đường dài để cải thiện sự kiểm soát đái tháo đường và giảm thiểu những biến chứng, đặc biệt là trong số các nhóm người dân thật sự cần nó. Đã đến lúc phải mở rộng sự tiếp cận CGM cho những bệnh nhân đái tháo đường típ 2”, họ cho biết.
Những lợi ích của CGM cho cả những bệnh nhân đái tháo đường típ 2 chỉ dùng Insulin nền
Trong thử nghiệm ngẫu nhiên của Martens và đồng tác giả, 176 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được lựa chọn từ trung tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Tất cả đều sử dụng insulin nền nhưng không có insulin trước ăn, được tiêm một hoặc hai mũi insulin tác dụng dài hoặc trung gian và có thể có hoặc không các loại thuốc hạ glucose khác. Họ được lựa chọn ngẫu nhiên theo tỉ lệ 2:1 để thực hiện CGM (Dexcom G6, n = 116) hoặc theo dõi đường huyết mao mạch ngón tay (n = 59).
Sau thời gian 8 tháng, A1c trung bình được cải thiện từ 9,1% xuống 8,0% ở nhóm CGM và từ 9,0% xuống 8,4% ở nhóm đối chứng, chênh lệch hiệu chỉnh đáng kể là -0,4% (P = .02).
“Mức độ hiệu ứng có thể lớn hơn nếu nhóm đối chứng nhận được sự chăm sóc thông thường thay vì sự hướng dẫn về cách tự chuẩn độ insulin dựa trên dữ hiệu theo dõi đường huyết.” Peek và Thomas viết.
Thời gian đường huyết nằm trong khoảng mục tiêu (Time in range- TIR -thời gian dành cho mức độ đường huyết từ 70-180 mg/dL) dài hơn 3,6 giờ/ngày ở nhóm CGM so với nhóm theo dõi đường huyết mao mạch ngón tay là 59% và 43% (P<.0001). Thời gian trung bình dành cho mức đường huyết trên 250 mg/dL thấp đáng kể ở nhóm CGM (P < .001).
Nhìn chung mức glucose máu trung bình là 179 mg/dL với nhóm CGM so với 206 mg/dL ở nhóm đối chứng (P < .001).
“Chỉ bởi bệnh nhân sử dụng insulin nền không có nghĩa rằng họ có khả năng kiểm soát bệnh đái tháo đường của bản thân.” Martens cho biết.
“Đây là nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát đầu tiên cho thấy rõ ràng CGM có thể là một công cụ quan trọng cho phép người bệnh mắc đái tháo đường típ 2 sử dụng insulin nền có thể hiểu và có những đáp ứng hiệu quả với sự thay đổi mức đường huyết của họ.”
Những lợi ích trong lựa chọn CGMs đối với bệnh nhân đái tháo đường típ 2 đang điều trị bằng insulin
Trong nghiên cứu thứ hai, Andrew J. Karter, Tiến sĩ, thuộc Kaiser Permanente Northern California, Oakland và cộng sự đã nghiên cứu hồi cứu dữ liệu từ 5673 bệnh nhân đái tháo đường típ 1 và 36,080 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được sử dụng insulin, chủ yếu là phác đồ insulin nền-bữa ăn. Họ đã so sánh 3806 bệnh nhân bắt đầu sử dụng CGM trong suốt những năm từ 2014 đến 2018 với 37,947 người không sử dụng CGM.
Trong 4 năm, mức A1c trung bình giảm từ 8.17% xuống 7.76% trong số những người được thực hiện CGM và từ 8.28% xuống 8.19% ở những người không thực hiện, mức A1c giảm chênh lệch -0.40% giữa hai nhóm (P < .001). Giảm A1c nhiều hơn ở nhóm đái tháo đường típ 2 so với típ 1 (-0.56 và -0.34%; P= 0.3).
“Sự cải thiện trong việc kiểm soát đường huyết có thể được so sánh với những gì bệnh nhân có thể trải qua sau khi bắt đầu sử dụng loại thuốc điều trị đái tháo đường mới.” Karter cho biết trong một thông cáo báo chí từ Kaiser Permanente.
Tỉ lệ đến khoa cấp cứu hoặc nhập viện vì hạ đường huyết giảm từ 5.1% xuống 3.0% ở nhóm sử dụng CGM, trong khi có sự tăng lên từ 1.9% đến 2.3% ở nhóm không sử dụng (P = .001 sau khi điều chỉnh). Sự khác biệt trong việc giảm tỉ lệ hạ đường huyết không khác nhau giữa hai típ đái tháo đường.
“Việc lựa chọn dùng CGMs có thể giải thích một phần những lợi ích mà chúng tôi đã nhìn thấy ở những bệnh nhân đái tháo đường típ 2.” Karter cho biết thêm. “Các bác sĩ dường như đã ưu tiên chỉ định máy theo dõi cho những bệnh nhân có tiền sử hạ glucose máu hoặc có nguy cơ cao hạ glucose máu.”
CGM không có tác dụng với những trường hợp cấp cứu hoặc nhập viện vì tăng đường huyết máu hoặc bất kỳ nguyên nhân nào không phải đái tháo đường nói chung hay là theo típ đái tháo đường.
Peek và Thomas viết về cả hai nghiên cứu: “Lợi ích đối với đường huyết trước tiên có thể do bản thân người bệnh, chẳng hạn tuân thủ điều trị insulin hay thay đổi lối sống, và việc cung cấp thêm một công nghệ theo dõi đường huyết mạnh mẽ như CGM có thể sẽ giúp kiểm soát đường huyết tốt hơn ở nhiều nhóm bệnh nhân”.
Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/952306
SOURCE:
JAMA. Published online June 2, 2021.
Effect of Continuous Glucose Monitoring on Glycemic Control in Patients With Type 2 Diabetes Treated With Basal Insulin A Randomized Clinical Trial
Thomas Martens, MD; Roy W. Beck, MD, PhD; Ryan Bailey, MS; et al
Association of Real-time Continuous Glucose Monitoring With Glycemic Control and Acute Metabolic Events Among Patients With Insulin-Treated Diabetes
Andrew J. Karter, PhD; Melissa M. Parker, MS; Howard H. Moffet, MPH; et al
JAMA. 2021;325(22):2273-2284. doi:10.1001/jama.2021.6530
Broadening Access to Continuous Glucose Monitoring for Patients With Type 2 Diabetes
Monica E. Peek, MD, MPH, MS; Celeste C. Thomas, MD, MS
Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi ykhoa.org – vui lòng không reup khi chưa được cho phép!
Người dịch: Lê Vy