[Sinh lý thú vị 21] Thể tích phổi, khoảng chết và thông khí phế nang.

Rate this post

Đây là case hướng dẫn bạn qua một số công thức cơ bản,  liên quan với hệ .Sử dụng thông tin được cung cấp trả lời câu hỏi: 

Hình 3-1 ghi lại sự thở của một người bằng  ký.

1, Sử dụng thông tin được cung cấp trên bảng và hình, tính các giá trị VT, IC, ERV, REC, VC và TLC?

Thể tích  trạng thái tĩnh (ngoại trừ thể tích khí cặn RV) được đo bởi  ký. Nó bao gồm thể tích khí lưu thông VT, thể tích khí hít vào gắng sức IRV, thể tích khí thở ra gắng sức ERV và thể tích khí cặn RV. Dung tích là bao gồm hai hay nhiều thể tích

2, Đại lượng nào là thể tích còn lại của  sau khi thở ra tối đa nhưng không đo được bằng  ký? Đại lượng thể tích hay dung tích nào không thể đo được bằng  ký?

Thể tích khí còn lại trong  sau thở ra gắng sức được gọi là thể tích khí cặn RV. Đó là thể tích không đo được bằng  ký. Do đó bất kỳ thể tích hay dung tích nào liên quan đến RV đều không đo được bằng  ký (FRC, TLC).

3, Ý nghĩa của thuật ngữ “khoảng chết sinh lý”? Những giả định nào được đưa ra trong tính toán khoảng chết sinh lý? Khoảng chết sinh lý trong trường hợp này là?

Khoảng chết sinh lý là thể tích của không khí vào  nhưng không tham gia tra đổi khí (nó là “chết”). khoảng chết sinh lý gồm hai phần: (1) khoảng chết , là thể tích của đường dẫn khí và (2) khoảng chết chức năng – được tạo thành bởi phế nang không tham gia trao đổi khí (phế nang được thông khí, nhưng nó không được tưới bởi  mao mạch ). Bằng việc so sánh khoảng chết sinh lý với thể tích khí lưu thông, có thể ước tính được lượng thông khí đã bỏ phí.

Thể tích của khoảng chết sinh lý được đánh giá bằng một phương pháp dựa trên PO2 của khí thở ra (PEO2) – áp dụng theo 3 nhận định sau: (1) Không có CO2 trong khí hít vào (PICO2 = 0). (2) Khoảng chết sinh lý không tham gia vào trao đổi khí và do đó không phân phối CO2 trong khí thở ra. (3) Tất cả CO2 trong khí thở ra đến từ sự trao đổi CO2 trong chức năng của phế nang.

Khi bàn luận về khoảng chết sinh lý, nó hữu ích để xem xét hai ví dụ, một – không có khoảng chết sinh lý và ví du khác là ở một số mức độ khoảng chết sinh lý hiện diện. Nếu không có khoảng chết sinh lý, PECO2 sẽ cân bằng với PACO2. Nếu có khoảng chế sinh lý, PECO2 sẽ bị pha loãng bởi khí thở ra từ khoảng chết (khí không chứa CO2) và PECO2 sẽ ít hơn PACO2.

Một vấn đề được so sánh PCO2 của phế nang và khí thở ra là khí phế nang không thể lấy mẫu trực tiếp; hay nói cách khác là chúng ta không thể đo được PACO2. Đó là vấn đề có thể giải quyết, bời vì khí phế nang bình thường cân bằng với mao mạch  (- trở thành  động mạch chủ). Thật vậy, bằng việc đo PCO2 động mạch, chúng ta có thể xác định PACO2.

Bằng từ ngữ, khoảng chết sinh lý là thể tích khí lưu thông nhân bới phân suất mô tả sự pha loãng của PCO2 phế nang bởi không khí trong khoảng chết.Chúng ta có tất cả giá trị cần thiết để tính toán khoảng chết sinh lý trong trường hợp này:

Thật vậy, thể tích khí lưu thông là 500 mL, 125 mL là khoảng chết sinh lý (đường dẫn khí và phế nang không có chức năng). Hay nói cách khác, 125 mL khí là bỏ phí vì nó không thể tham gia trao đổi khí.

4, Giá trị thông khí phút là gì?

Thông khí phút là thể tích khí lưu thông nhân với nhịp thở trong một phút

5, Giá trị thông khí phế nang là gì?

Thông khí phế nang là thông khí phút không tính cho khoảng chết sinh lý.

Trong trường hợp này, thể tích khí lưu thông được xác định bởi  ký (500 mL) và khoảng chết sinh lý được tính toán cho câu hỏi trước đó là 125 mL. Thật vậy, thông khí phế nang được tính như sau:

6, Công thức cho thông khí phế nang là gì? Mối liên hệ giữa thông khí phế nang và PCO2 phế nang (PACO2)?

Xem xét câu hỏi về thông khí phế nang, PCO2 phế nang, có lẽ bạn tự hỏi thông khí phế nang liên quan gì đến chức năng của phế nang. Câu trả lời là mọi thứ! Mối liên hệ cơ bản trong sinh lý 

Advertisement
 là một tương quan tỉ lệ nghịch giữa thông khí phế nang và PCO2 phế nang. Nếu CO2 được tạo ra là hằng định, thông khí phế nang lớn hơn, sẽ có nhiều CO2 được thải ra và thấp PCO2 động mạch. Khi PCO2 phế nang cân bằng với PCO2 động mạch, sẽ có nhiều thông khí phế nang hơn, sự thấp hơn PCO2 ở phế nang. Ngược lại, thông khí phế nang thấp, ít CO2 được thở ra, và cao PCO2 ở động mạch và phế nang. Mối liên hệ được mô tả qua công thức:

7, Giá trị áp suất từng phần O2 của phế nang (PAO2) là gì?

Bởi vì chúng ta không thể lấy mẫu khí phế nang, chúng ta không thể trực tiếp đo PAO2. Tuy nhiên chúng ta có thể sử dụng hướng  sau để đánh giá giá trị đó. PAO2 được xác định bởi cân bằng giữa loại bỏ O2 từ khí phế nang và tái làm giàu O2 bởi thông khí phế nang. Do đó, nếu O2 tiêu thụ hằng định, PO2 phế nang được xác định bởi thông khí phế nang.

Mối liên hệ được mô tả bởi công thức khí phế nang, với nó kết hợp các nhân tố xác định PAO2 (bao gồm áp suất từng phần của O2 trong khí hít vào (PIO2), PAO2) và tỉ số  (là tỉ lệ của CO2 tạo ra/ O2 tiêu thụ):

Trong trường hợp này, giá trị cho PIO2 (150 mmHg), giá trị PaCO2 và PACO2 là 40 mmHg, và giá trị tỉ số  có thể được tính như tỉ lệ CO2 tạo ra chia tỉ lệ O2 tiêu thụ là 0.8

Case được  từ sách: Physiology cases and problems
Tham khảo từ bản  của: NGUYỄN THỊ HUỲNH NHƯ – Khoa  ĐHQG TP.HCM.

Giới thiệu Lac Thu

Check Also

Tirzepatide hàng tuần cải thiện đáng kể cân nặng và kiểm soát đái tháo đường ở bệnh nhân béo phì và đái tháo đường loại 2.

Một nghiên cứu ngẫu nhiên đã chứng minh rằng tirzepatide giúp giảm cân và cải …