[Medscape] Bệnh động kinh thường xảy ra sau chấn thương, ngay cả sau chấn thương sọ não ‘nhẹ’

Rate this post

Theo nghiên cứu mới đây, chấn thương sọ não (traumatic brain injury -TBI), dù là loại nhẹ, cũng có thể dẫn đến chứng động kinh sau chấn thương (post-traumatic epilepsy -PTE) lên đến một năm kể từ khi chấn thương đầu xảy ra.

Kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ tương lai, đa địa danh cho thấy 2,7% trong số gần 1500 bệnh nhân bị chấn thương sọ não được báo cáo cũng bị động kinh sau chấn thương, và những bệnh nhân này có kết quả xấu hơn đáng kể so với những người không bị động kinh sau chấn thương.

“Động kinh sau chấn thương phổ biến ngay cả khi chấn thương sọ não nhẹ, và chúng ta nên theo dõi những bệnh nhân xuất hiện các đợt động kinh này”, đồng điều tra viên Ramon Diaz-Arrastia, MD, Tiến sĩ, giáo sư thần kinh và giám đốc của TBI Trung tâm Nghiên cứu Lâm sàng, Đại học Pennsylvania, Philadelphia, nói với Medscape Medical News.

Diaz-Arrastia nói thêm rằng anh không thích thuật ngữ ” chấn thương sọ não nhẹ” vì nhiều chấn thương loại này có “hậu quả khá lớn”.

Các phát hiện đã được công bố trực tuyến vào ngày 29 tháng 12 trên JAMA Network Open.

Nghiên cứu mới

Cơn động kinh có thể xảy ra sau khi bị chấn thương sọ não, thường gặp nhất là sau chấn thương não nặng dẫn đến hôn mê hoặc chảy máu trong não hoặc cần can thiệp phẫu thuật. Tuy nhiên, đã có “gợi ý” rằng một số bệnh nhân bị chấn thương sọ não nhẹ hơn cũng tăng nguy cơ bị động kinh, Diaz-Arrastia cho biết.

Để điều tra, các nhà nghiên cứu đã đánh giá dữ liệu từ cơ sở dữ liệu của nghiên cứu lớn chuyển đổi đa địa danh và Kiến thức Lâm sàng về Chấn thương Não (TRACK-TBI).

Các đối tượng nghiên cứu (bị chấn thương sọ não), được định nghĩa là có thang điểm Glasgow (GCS) từ 3-15, đã đến trung tâm chấn thương cấp I trong vòng 24 giờ sau khi bị chấn thương đầu cần được đánh giá bằng chụp CT.

Nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân bị chấn thương sọ não nhẹ (điểm GCS, 13-15), đây là một “đặc điểm mới” của nghiên cứu, các tác giả lưu ý. Hầu hết các nghiên cứu trước đây về chứng động kinh sau chấn thương tập trung vào chấn thương sọ não từ trung bình đến nặng.

Các nhà nghiên cứu cũng tính đến hai nhóm đối chứng về giới tính và tuổi tác phù hợp. Nhóm đối chứng chấn thương chỉnh hình (OTC) bao gồm những bệnh nhân bị chấn thương riêng rẽ ở các chi, xương chậu và/hoặc xương sườn. Nhóm đối chứng tương đương có nền tảng và lối sống tương tự như những người bị chấn thương sọ não nhưng không có tiền sử chấn thương sọ não, chấn động hoặc chấn thương trong năm trước.

Phân tích bao gồm 1885 người tham gia (tuổi trung bình 41,3 tuổi; 65,8% nam giới). Trong số này, 1493 người bị chấn thương sọ não, 182 người thuộc nhóm OTC và 210 người trong nhóm đối chứng tương đương.

Khi theo dõi 6 và 12 tháng, các nhà nghiên cứu đã cung cấp Bảng câu hỏi sàng lọc bệnh động kinh (ESQ), được phát triển bởi Viện Quốc gia về Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ (NINDS).

Dữ liệu xác nhận

Những người tham gia nghiên cứu được hỏi về các cử động mất kiểm soát, những thay đổi không giải thích được về trạng thái tinh thần, và lặp đi lặp lại các đợt co giật bất thường, và liệu họ có được biết rằng họ bị bệnh động kinh hoặc cơn động kinh hay không. Nếu họ trả lời có cho bất kỳ câu hỏi nào trong số này, họ sẽ được khám sàng lọc cấp độ thứ hai, hỏi về các cơn động kinh.

Bệnh nhân được coi là mắc bệnh động kinh sau chấn thương (PTE) nếu họ trả lời khẳng định với bất kỳ mục nào trong sàng lọc cấp độ đầu tiên, bị các cơn động kinh trong 7 ngày sau chấn thương và được chẩn đoán mắc bệnh động kinh.

Kết quả chính là tỷ lệ chẩn đoán PTE dương tính. Sau 12 tháng, 2,7% những người chấn thương sọ não được chẩn đoán PTE so với không có ai trong các nhóm chứng (P <0,001).

Tỷ lệ này phù hợp với các tài liệu trước đây và “khá gần với những gì chúng tôi mong đợi”, Diaz-Arrastia nói.

Trong số những người bị người chấn thương sọ não và PTE, 12,2% có điểm GCS là 3-8 (nặng), 5,3% có điểm 9-12 (trung bình) và 0,9% có điểm từ 13-15 (nhẹ). Diaz-Arrastia cho biết con số đó đối với chấn thương sọ não nhẹ không phải là không đáng kể.

“Có lẽ 90% tất cả những người đến phòng cấp cứu với chấn thương sọ não được chẩn đoán là chấn thương sọ não nhẹ thì không cần nhập viện”, ông lưu ý.

Nguy cơ PTE càng cao khi chấn thương đầu càng nặng và có xuất huyết trên phim chụp CT đầu. Ở những bệnh nhân chấn thương sọ não nhẹ, xuất huyết làm tăng khả năng bị PTE gấp 2-3 lần so với khi không có xuất huyết.

Theo Diaz-Arrastia, “Nghiên cứu quan sát tiền cứu này xác nhận dữ liệu dịch tễ học rằng ngay cả sau khi chấn thương sọ não nhẹ, vẫn có nguy cơ mắc bệnh động kinh”.

Kiểm tra tông quát

Các nhà nghiên cứu cũng xem xét liệu các cơn động kinh có làm xấu đi các kết quả khác hay không. So với những người bị chấn thương sọ não nhưng không bị PTE, những người bị PTE có điểm số Glasgow Outcome Scale Extended (GOSE) thấp hơn đáng kể (trung bình 4,7 so với 6,1; P <0,001), điểm Tóm tắt triệu chứng (Brief Symptom Inventory -BSI) cao hơn (58,6 so với 50,2; P = 0,02) và điểm số đo lường nhận thức Rivermead (RCM) cao hơn (5,3 so với 3,1; P = 0,002) sau 12 tháng sau khi kiểm đối chứng độ tuổi, điểm GCS ban đầu và kết quả hình ảnh.

Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng điểm GOSE và RCM cao hơn phản ánh kết quả (outcome) tốt hơn, nhưng điểm BSI (điểm đánh giá tâm trạng tổng thể) cao hơn phản ánh kết quả tồi tệ hơn.

Advertisement

Các bằng chứng trước đây cho thấy việc sử dụng dự phòng thuốc chống động kinh ở bệnh nhân chấn thương sọ não không làm giảm nguy cơ. Diaz-Arrastia cho biết những loại thuốc này “không an toàn 100% và cũng không hiệu quả 100%”. Ông nói thêm một số nghiên cứu cho thấy rằng một số thuốc thực sự làm kết quả (outcome) xấu đi.

Thay vào đó, những gì lĩnh vực này cần là các loại thuốc chống động kinh – những loại thuốc can thiệp vào sự mềm dẻo của khớp thần kinh do kém thích nghi mà dẫn đến một mạch động kinh, ông lưu ý.

Các kết quả mới cho thấy tầm soát PTE bằng NINDS-ESQ “nên được thực hiện khá thường quy như một theo dõi cho tất cả các chấn thương não,” Diaz-Arrastia nói.

Các nhà nghiên cứu có kế hoạch để những người tham gia nghiên cứu sau này được đánh giá bởi một nhà động vật học. Ông lưu ý rằng một số lượng đáng kể những người bị chân thương sọ não sẽ không phát triển đến PTE cho đến 1-5 năm sau khi họ bị thương – và thậm chí muộn hơn trong một số trường hợp.

Các nhà nghiên cứu lưu ý: một hạn chế của nghiên cứu là một số bệnh nhân có báo cáo PTE có thể đã bị co giật không động kinh do tâm lý (psychogenic nonepileptiform seizures), thường gặp ở bệnh nhân chấn thương sọ não.

Nghiên cứu được hỗ trợ bởi One Mind, Viện Y tế Quốc gia (NIH), Viện Quốc gia về Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ (NINDS), và Bộ Quốc phòng. Diaz-Arrastia cho biết đã nhận được tài trợ từ NIH, NINDS và DOD trong quá trình tiến hành nghiên cứu.

 

Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/965809#vp_1

Tham khảo: JAMA Network Open. Published December 29, 2021. https://jamanetwork.com/journals/jamanetworkopen/fullarticle/2787590

Bài viết được biên tập và dịch thuật bởi ykhoa.org – vui lòng không reup khi chưa được sự cho phép!

Người dịch: Gia Minh

Người duyệt: thaongan2509

Giới thiệu trangiaminh

Check Also

[Medscape] Việc hòa ca nhạc đồng quê đã giúp bác sĩ tìm thấy sự cân bằng

Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi thường được hỏi làm thế nào để cân …